×

Giỏ hàng

175   2025-01-18 21:08:21

THÔNG GIAO DƯỚI CÁI NHÌN CỦA TRIẾT GIA KARL JASPERS

Phêrô Phạm Văn Đảo - Khoá XX, ĐCV Sao Biển Nha Trang

Hướng dẫn tiểu luận: L.m Micae Lê Nguyễn Hoài Vũ

Tiểu luận tốt nghiệp triết học 2021 - 2022

 

Karl Jaspers (1883 - 1969), sinh tại Oldenbourg, nước Đức, theo học Luật khoa tại Heidelberg và München từ 1901 - 1902; từ 1902 - 1907 theo học Y khoa tại Berlin, Göttingen và Heidelberg. Tại Heidelberg, năm 1909, Jaspers đã trình Luận án Tiến sĩ với đề tài: Heimweh und Verbrechen - Nỗi nhớ và tội ác. Sau đó, ông được đề cử làm Phụ khảo Y khoa, ngành Tâm trị học ở Heidelberg. Năm 1913, ông được thăng chức Giảng nghiệm viên về môn Tâm lý học. Cũng chính con đường Y khoa và Tâm lý học dẫn ông khám phá những u uẩn trong cuộc sống của con người, nên năm 1916, ông đã được mời làm Giáo sư thỉnh giảng, rồi Giáo sư thực thụ về Triết học tại Heidelberg năm 1921. Nhưng vào năm 1937, vì lý do chính trị, ông bị phong trào Đức quốc xã huyền chức. Trong thời gian ấy, Karl Jaspers không được phép xuất bản bất cứ tác phẩm nào, mãi tới năm 1945 mới được tại chức và năm 1946, được tặng chức “Kỳ lão danh dự” (Ehren Senator) ở Đại học Heidelberg.[1]

Các tác phẩm của Karl Jaspers để lại những tư tưởng có giá trị, đặc biệt trong lĩnh vực triết học, được viết theo các giai đoạn khác nhau. Các tác phẩm đó bao gồm cả về tâm lý học, văn học và triết học, có thể kể đến: Tâm Bệnh Học (1911); Tâm Lý Học Về Những Vũ Trụ Quan (1919); Triết học (1932); Những Đại Triết Gia (bộ sách về lịch sử triết học).[2] Đây chỉ là một số tác phẩm chính của Karl Jaspers nhưng cũng đủ nói lên sự phong phú về tư tưởng của vị triết gia Công Giáo này.

Là một triết gia nổi bật trong trào lưu triết học hiện sinh, Karl Jaspers cho rằng: “với tư cách của con người tự do, chúng ta còn cần tới những con người tự do khác để giữa họ và chúng ta có sự thông giao, vì chỉ có sự thông giao mới giúp cho chúng ta và cho họ trở thành người có bản lĩnh thực sự.”[3] Nói cách khác, con người chỉ thực sự hiện hữu và đạt tới chân lý khi có người khác. “Vì người ta không thể thực sự độc lập nếu người ta tự rút lui vào bóng tối với chính mình mà thôi.”[4]

Qua đó, Jaspers cho thấy để có sự thông giao giữa con người với con người thì cần tới con người khác, nhờ đó giúp cho nhau trở thành người có bản lĩnh thực sự. Nói cách khác, người có bản lĩnh chính là khi biết đến người khác. Karl Jaspers đi từ sự độc lập và khả năng tương quan của con người. Để khai thác yếu tố này, ông khám phá ra mối tương giao giữa con người với nhau. Khi con người cảm thấy cô đơn, cũng là lúc con người cần đến sự quan tâm sống động của tha nhân. Tha nhân với cái nhìn của Karl Jaspers rất cởi mở. Sự hiện hữu của tha nhân như thể là một nhu cầu mạnh mẽ thâm sâu thúc bách tôi phải thông giao với họ, trên bình diện con người hiện sinh, có mối tương quan song phương, hai chiều, hỗ tương và bổ túc cho nhau. Mỗi con người hiện sinh là một kiệt tác độc đáo, rất riêng biệt và không hề đơn độc, một hiện sinh biết hoà đồng mà không hoà tan, biết chia sẻ với người khác. Vì thế, vị triết gia này nói rằng: “Những gì tôi có mà tôi không biết san sẻ cho người khác, thì giá trị của những gì tôi có chỉ dừng lại ở đó.”[5]

Trong quá trình thông giao, con người phải đối diện với những hiện sinh khác. Sự kiện toàn bản thân luôn là mục đích được nhắm tới của thông giao, nhưng đồng thời “tôi vẫn là tôi”, vẫn còn đó đặc điểm riêng biệt thể. Hơn nữa, khi con người thông giao với nhau, một trong hai bị biến mất thì không còn thông giao. Do vậy, theo triết gia Jaspers, “thông giao là hiện sinh với một hiện sinh khác. Cả hai đều phải vươn tới mức hiện sinh trung thực, tự do và độc đáo; cả hai đều là những hiện sinh không thể thay thế được.”[6] Có nghĩa anh là anh, tôi là tôi, chúng ta cùng là hiện sinh. Nhưng anh không thể là tôi, và ngược lại.

Đàng khác, cũng theo triết gia này, trong khi thông giao, chúng ta cần thông giao trong tình thương và tôn trọng nhân vị của nhau. Tôi sẽ không chiếm hữu tha nhân làm của riêng tôi, nhưng giúp họ trở nên chính mình và nhận ra những nét độc đáo nơi mình. Yêu tha nhân không bắt tha nhân phải lệ thuộc hay nô lệ mình, yêu tha nhân là cùng với tha nhân đi đến đích điểm cuộc đời, cùng tha nhân đạt tới hiện sinh đúng nghĩa. Dưới cái nhìn của Karl Jaspers: thông giao đích thực phải là cái gặp gỡ của hai hiện sinh đích thực. Một sự gặp gỡ diện đối diện, biết chờ đợi, khát khao và mong muốn được tiếp cận với tha nhân. Tuy nhiên, trong thực tế không đơn giản như vậy, vì có những gặp gỡ không đối thoại, dường như đó chỉ là đụng độ, giáp mặt mà tình cờ… cũng có những thông giao không gặp gỡ, hay không đi đến một gặp gỡ đích thực, bằng mặt mà không bằng lòng, đây là điểm giao, là vấn đề hiện sinh phải vượt qua để đạt tới điểm thông. Như thế, mọi chân lý mới được thể hiện và tôi mới thực sự là tôi.

Quy vào mối tương quan làm nên sự gặp gỡ đích thực, Jaspers nêu rất chi tiết trong phần thông giao này. Chính nhờ vào hai điểm thông giao, mà mối tương quan của chúng ta với tha nhân đã được gạn lọc, nung chảy để hiện sinh đích thực. Vị triết gia chỉ ra rằng: “thông giao là nơi cọ xát, là nơi để tôi trở nên tôi và bạn trở nên bạn trong yêu thương bác ái. Những mối tình thiếu đấu tranh đích thực sẽ thiếu sâu sắc, là không thông giao thật.”[7] Những mối tương giao dễ dàng, thiếu đấu tranh thì thiếu tính hiện sinh, vì chưa vươn tới mức độ độc đáo, tự quyết. Chính điểm khó hiểu này, lại là điểm độc đáo mà triết gia Jaspers mang đến. Như trong tục ngữ Việt Nam có câu: “mình với ta tuy hai mà một, ta với mình tuy một mà hai”. Con người cao quý ở chỗ biết yêu thương, cho nên thông giao là mức độ hoàn hảo của hiện sinh, mỗi người phải giữ vững tự do và nét độc đáo đó. Anh đừng giống như tôi, đừng bắt chước tôi, vì mỗi chúng ta là một kiệt tác.

Nhờ những nét riêng của mỗi người, làm cho mỗi người có nhân cách khác nhau, nghĩa là cách làm người khác nhau và thông giao đòi buộc phải nhìn nhận tính cách của tha nhân. Thông giao đáng quý hơn hiện sinh, vì hiện sinh được đặt trên nền tảng của tự do và độc lập, còn thông giao lại được đặt trên bình diện đấu tranh yêu thương của hai hiện sinh. Cho nên chỉ có ai dám mở cửa lòng để đón hiện sinh khác, mới trở nên chính mình được. Đó là lý do vì sao Jaspers khẳng định: “hiện sinh phải là cái tôi ngỏ lời với một cái tôi khác, mà cả hai đều độc nhất tuyệt đối, hiện sinh vừa e thẹn vừa  khát vọng”[8] trước hiện sinh khác.

Vậy, con người gặp gỡ nhau khi cảm thấy đơn độc. Sự gặp gỡ này chỉ xảy ra trong ý thức phản tỉnh của mỗi người, đây là một cuộc gặp gỡ kép. Người này gặp gỡ người kia trong sự hồi tâm của người ấy. Hơn nữa, chính cuộc gặp gỡ kép này, lại là cuộc gặp gỡ tay đôi, vì khi gặp gỡ người kia là gặp gỡ chính mình. Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, chúng ta cùng nghiên cứu đề tài “Thông giao dưới cái nhìn của Karl Jaspers”, với ước mong tìm hiểu và góp nhặt được những điều quý giá cho việc sống mối tương quan của chính mình với tha nhân. Tuy nhiên, trong giới hạn của đề tài này, chúng ta chỉ trình bày sơ lược khái niệm về “thông giao” theo Karl Jaspers. Thông giao có vai trò gì trong tư tưởng hiện sinh? Và đâu là các mối liên hệ của thông giao? Nó “góp” gì cho chúng ta: một cái nhìn đúng đắn nhất về các mối thông giao của bản thân với tha nhân, trên con đường tìm kiếm Chân - Thiện - Mỹ?

I. Khái niệm về “Thông giao” theo Karl Jaspers

Để diễn tả mối quan hệ giữa con người với nhau, một số triết gia sử dụng hạn từ “tương giao”, “thông cảm” hay “tương thông”. Nhìn chung, những hạn từ này đều mang một nghĩa là giữa người với người có mối quan hệ qua lại, giao thiệp và kết thân với nhau trên bình diện sinh hoạt hằng ngày, mối quan hệ này có tính chất dễ dàng. Nói cách khác, đó là sự gặp gỡ, kết hợp giữa chủ thể và đối tượng, nhưng chỉ dừng lại ở việc biết nhau, không đạt đến việc hiểu nhau và không cùng chung sống. Như vậy, tha nhân được xem như đối tượng, sự vật hoàn toàn thụ động.

Đàng khác, con người hiện sinh tự do không thể trở thành đối tượng cho khoa học thực nghiệm. Cần phải có một “khoa học” khác, khoa học này có tên là “triết lý hiện sinh”. Triết hiện sinh làm cho con người nhận ra mình không phải là một sự vật bất động. Nhưng con người có khả năng hồi tưởng, suy nghĩ, dự tính. Và chỉ con người mới có đời sống nội tâm, ý thức phản tỉnh, đặc biệt là có tự do. Vậy nên, con người là một hữu thể đứng trên vũ trụ và có quyền gán cho vũ trụ một giá trị theo quan điểm riêng biệt. Hơn nữa, khi ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện sinh của mình, con người phải sống cuộc sống độc đáo đó, không ai có thể sống thay thế, nghĩa là tôi đừng theo đuôi “người ta”. Hiện sinh phải cựa mình để lượn lên và không bao giờ cam chịu nằm lì ở trạng thái an cư của một sự vật.[9] Qua đó, thiết nghĩ nếu chỉ sử dụng những hạn từ “tương giao”, “thông cảm” hay “tương thông”, để nói về mối quan hệ giữa người với người sẽ không lột tả hết được ý nghĩa của nó. Ẩn sâu trong mối liên hệ giữa người với người còn là yêu thương, trao ban và nhận lấy, cũng như sự khám phá về bản thân. Vì hiện sinh độc đáo nên có sự khác biệt, phong phú để trao ban cho tha nhân, và nhận lại từ tha nhân những điều mới lạ với mình. Như vậy, hiện sinh với người khác có mục đích vươn tới sự trọn hảo là thể hiệnhiểu chính mình với tất cả tự do qua hình thức “thông giao”.

Chính vì thế, chữ kommunikation trong tiếng Đức được Karl Jaspers sử dụng khi suy tư mối liên hệ đặc biệt giữa con người với nhau. Mặc dù có nhiều tác giả đã dịch chữ kommunikation là “giao thể”. Nhưng “giao thể” không diễn tả trọn tư tưởng của Jaspers, cho nên tác giả Trần Thái Đỉnh đã đề nghị dùng chữ “thông giao”.[10] Vậy theo Jaspers, thông giao là gì?

  1. Ý nghĩa của “Thông giao”

Triết gia Jaspers không định nghĩa cách minh nhiên thông giao là gì, nhưng dùng phương pháp “soi vào” để đưa ra những cái nhìn về thông giao. Trước hết, chúng ta xem qua những trường hợp không có thông giao, để hiểu hơn những điều kiện thiết yếu có được thông giao. Chẳng hạn như xã hội bộ lạc, ở xã hội này chưa thể có thông giao, bởi lẽ đặc tính của nó là: “Mỗi người làm cái mà mọi người khác làm, tin những điều mà mọi người đều tin, và suy tưởng đúng như mọi người cùng suy tưởng.”[11] Bên cạnh đó, xã hội của những đơn tử (monades) cũng không thể có thông giao. Bởi đây là xã hội của những con người khép kín, những bạo chúa độc tài hay những triết gia duy tâm. Trong xã hội này, tiếng nói của dân, của đoàn thể hay văn học cũng đều là tiếng vọng lại của nhà độc tài mà thôi. Người dân sống cô đơn nhưng lại không biết mình cô đơn.[12] Như vậy không thể có thông giao và cũng không có con người hiện sinh trong những xã hội này.

Vậy khi nào mới có thông giao đích thực? Đó là khi những con người hiện sinh cùng sinh hoạt và tương quan với nhau, nhưng phải có sự độc lập không phụ thuộc lẫn nhau. Cụ thể, theo Jaspers, thông giao là tương quan giữa những con người hiện sinh tự do và độc đáo, vì triết gia này cho rằng: “tôi chỉ sống khi sống với người khác. Một mình, tôi không là gì cả.”[13] Nói về điều kiện để có được thông giao, Paul Ricoeur (1913 - 2005), triết gia người Pháp cho rằng: “Nếu tha nhân vâng phục tôi, nếu tha nhân chỉ là tiếng vọng của tôi, thì tôi không thể trở thành tôi trung thực được. Cần tha nhân phải là nhân vị thực thụ, tự do và đầy tư cách, thì tôi mới là tôi đích thực, và sự thông giao mới có được.”[14]

Con người hiện sinh luôn tự do và độc đáo, vậy làm sao để “thông giao” những cái khác biệt và độc đáo của nhau được? Theo tác giả Trần Thái Đỉnh, với Karl Jaspers, phải có đấu tranh thương yêu để có được thông giao. Thiếu tranh đấu, không thể có tính cách “khác” - là nền tảng của thông giao. Thiếu thương yêu, không thể có “sự thông hiệp”. Có thể nói đấu tranh là yếu tố “giao”, và thương yêu là yếu tố “thông” của sinh hoạt thông giao. Thông thường, người ta chỉ nghĩ đến những mối thông giao dễ dàng, không đấu tranh không xung khắc, nhưng đối với Jaspers, những thông giao đó còn thiếu tính chất hiện sinh, bởi vì những con người thông giao đó chưa vươn tới mức độc đáo và tự quyết của mỗi người.[15]

Như đã nói ở trên, chúng ta nhận thấy rằng quả thực không dễ để có được sự thông giao giữa những con người hiện sinh. Nhưng tại sao thông giao lại là điều kiện của hiện sinh đích thực? Con người hiện sinh có tự do để trở thành cái mà mình muốn, nhưng sự trở thành đó sẽ không bao giờ có được nếu không có sự hiện diện của tha nhân. Jaspers không đặt tha nhân thành vấn đề nhưng xem đó là một hiển nhiên. Vì đối với triết gia này, trong ý niệm chọn lựa, trong tự do đã ngầm chứa ý niệm về tha nhân. Triết gia này cho thấy hiện sinh là trở thành cái mình muốn bằng con đường tự chọn, nhưng sự trở thành sẽ không bao giờ có, nếu không có sự hiện diện của tha nhân.[16] Như vậy, tha nhân xuất hiện như một cái gì không phải “tôi” mà chính là cái vừa giới hạn vừa kiện toàn cho tôi. [17]

  1. Thông giao như khơi nguồn cho hiện sinh

Trong Triết học hiện sinh, tác giả Trần Thái Đỉnh trình bày thông giao như là điều kiện của hiện sinh: thiếu thông giao đích thực, không thể có hiện sinh đích thực.[18] Thật vậy, thông giao khơi nguồn cho sự hiện sinh đích thực. Triết gia Jaspers quan niệm hiện sinh khác với sinh tồn và thường chống lại chủ nghĩa sinh tồn, như tác giả Triết học hiện sinh suy tư: “Bám vào sự sống như rễ cây bám chặt vào đất: đó là sinh tồn, chưa phải là hiện sinh. Chỉ ham những cảnh dễ dàng và chạy theo những thú vui ào ạt: đó là sinh tồn, không phải hiện sinh. Chủ nghĩa sinh tồn làm con người coi sự sống như của báu duy nhất và như tất cả ý nghĩa cuộc đời.”[19] Sinh tồn là một điều gì dễ dàng và đơn giản, sống theo bản tính của sự vật. Người theo chủ nghĩa sinh tồn chỉ “sống để mà sống” chứ không biết mình “sống vì mục đích gì” hay “tại sao mình lại tồn tại”. Trái ngược với sinh tồn, hiện sinh là vươn lên trên mức sống của sinh vật, vì hiện sinh là cuộc sống tinh thần. Nói cách khác, “hiện sinh là ý nghĩa của đời sống, người ta chỉ vươn tới hiện sinh khi nào người ta đã ý thức được rằng mình sống để làm gì: sống để thể hiện cái định mệnh cao quý và độc đáo của mình, không sống để mà sống.”[20] Điều đó cũng có nghĩa là hiện sinh chỉ bắt đầu xuất hiện khi con người ý thức sâu xa rằng mình là một chủ thể. Chủ thể nghĩa là chủ động nhận nhân cách và bản lãnh của mình. Khi là chủ thể, con người đã nhảy một cái thực xa từ bình diện đồ vật (être-objet) lên tới bình diện ngã vị (être-moi).[21]

Hơn nữa, con người hiện sinh phải là con người có lý tưởng vươn lên trước mọi chọn lựa. Hành vi chọn lựa nói lên được tinh thần độc lập, biết làm chủ chính mình. Cũng chính trong tinh thần tự lập, biết làm chủ mà chủ thể hiện sinh khẳng định được ý nghĩa tự do. Sự liên hệ giữa người với người là một điều cần thiết: tôi muốn thành thực tìm hiểu người khác nhưng không thể, vì quan điểm tín ngưỡng khác nhau, đang khi tôi tin chắc rằng chỉ có chân lý của tôi là tuyệt đối đúng, dù rằng nhiều lúc xảy ra tranh đấu mà không bao giờ hy vọng hòa giải. Lúc ấy, một là phải đầu hàng, hai là bị tiêu diệt. Nhưng những người ủy mị, thụ động, không có lập trường thường hòa giải nhau mà hòa giải trong mù quáng hay trong cố chấp thách đố nhau.[22] Trong trường hợp này, chủ thể tự do biết nhận ra đâu là chân lý, sự thật và nền tảng. Khi hoàn cảnh đòi buộc chủ thể phải chủ động, đắn đo về phán quyết và hành vi tự do của mình. Vì vậy, hiện sinh đích thực là hiện sinh biết nhận định một cách sáng suốt. Hiện sinh tự do, tự chủ thì không sự vật nào có khả năng cưỡng bách tôi phải công nhận nó phải thế này hay thế nọ, ngay cả tha nhân cũng không có khả năng đó.

Nói cách khác, chủ thể hiện sinh là chủ thể dám nhìn thẳng, nhìn thật không e ngại trước bất cứ một hành vi nào, dù đó là một thử thách. Thế nên, hiện sinh của những con người tỉnh ngộ; họ sống thực, sống thẳng, không sống theo những quan niệm trừu tượng, nhưng luôn luôn cố gắng dùng suy nghĩ để xác nhận ý nghĩa cuộc đời. Chỉ có sự thật mới dẫn đưa con người đi đúng hướng của hiện sinh. Chính cái thật mà con người phải cố gắng nỗ lực vươn lên. Về điểm này chính triết gia Socrates là tấm gương sáng lạn nhất: với trí óc minh mẫn, với tinh thần bao dung, triết gia cương nghị theo con đường của mình, không để mình bị lạc hướng, không nao núng trước hành động hung bạo, phẫn nộ của những kẻ căm hờn, ghen ghét và luôn luôn cố tình cho mình có lý. Không nhượng bộ, không lợi dụng cơ hội sẵn có để tẩu thoát, Socrates đã chết với một vẻ điềm tĩnh phi thường, với lòng tin tưởng mãnh liệt, triết gia đã sẵn sàng đón nhận nguy hại. Cũng vậy, các Thánh tử đạo cũng đã nêu gương vì muốn trung thành với niềm tin của mình.[23] Trong hoàn cảnh hiện sinh không có một hướng vươn lên trong sự thật thì dễ dàng đi vào một nẻo đường khác, mà con đường khác đó không gì hơn là sự lệch lạc và không có ý nghĩa, sống mà không biết mình sống để làm gì, mình sẽ đi về đâu. Cũng từ đó cuộc sống như vô nghĩa, con người sống trong sự chán nản, và rồi để cuộc sống mình tự xuôi chảy theo dòng đời.[24] Bên cạnh đó, Jaspers cũng thường gọi hiện sinh là hiện sinh khả hữu (existence possible) để nói lên vai trò chủ động của một người trong việc xây dựng nhân cách và định mệnh của mình. Tư tưởng của triết gia này về hiện sinh khả hữu được trình bày khá đầy đủ trong câu: “Tôi chỉ là cái tôi do chính tôi tạo nên, nhưng tôi chỉ tạo nên cái tôi trung thực là tôi… Cái tôi trung thực đó không ở sau lưng tôi, nhưng ở trước mặt tôi; không phải là cái tôi hiện nay, nhưng là cái tôi đang trở thành, tức là cái mà tôi quyết tâm và đang lo tính để trở nên.”[25]

Đàng khác, thông giao như khơi nguồn cho triết lý. Jaspers cho chúng ta thấy phấn khích triết lý bắt nguồn từ khả năng biết ngạc nhiên, hoài nghi và cảm nghiệm thấy mình sa đọa (ý thức thất bại, giới hạn).[26] Dù cả ba nguồn suối ấy đều có giá trị nhưng vẫn chưa đủ, vẫn chưa nêu được hết lý do thúc đẩy suy tư triết lý trong thời đại này, mà còn phải kể tới ước vọng thông giao thực sự. Bởi vì bản chất triết lý là phải được phổ biến, diễn tả, truyền bá cho người khác để nghe và hiểu. Muốn vậy, phải nhờ thông giao triết lý mới đạt được.[27] Thật vậy, đối với Jaspers, triết lý là phải thông giao. Người ta không thể triết lý một mình, mà bao giờ cũng triết lý với kẻ khác. Thế nên tự nó, triết lý là đối thoại. Hình ảnh cổ xưa nhất và điển hình nhất đó là triết lý của Platon: chỉ bằng đối thoại, theo con đường của thầy Socrates. Triết gia Jaspers muốn đề cao tinh thần ấy, vì nó giúp vượt qua những nhỏ nhen, hẹp hòi của sự phân biệt biên cương, tôn giáo, chủng tộc, sắc dân… tinh thần ấy làm cho triết gia trở thành những hiệp sĩ không ngừng chiến đấu cho sự liên tục giữa quá khứ và tương lai. Jaspers nhấn mạnh: những gì tôi thâu lượm được cho một mình tôi trong khi suy niệm sẽ vô giá trị nếu tôi chỉ dừng lại ở đó. Tất nhiên khi ta suy niệm được điều gì, điều đó phải có thể đem ra bàn luận, vì tư tưởng đó có thể là chân lý. Vậy đòi hỏi phải được truyền bá để người ta hiểu nhau, dễ thông giao với nhau và để thức tỉnh tha nhân nếu họ sẵn sàng đón nhận. Vì bao lâu còn tìm kiếm triết lý là bấy lâu còn phải phấn đấu bằng tranh luận nhưng không phải để thị oai mà để giúp con người thêm sáng suốt.[28] Vì tất cả những gì không thực hiện được bằng thông giao với người khác đều không hiện hữu. Những gì không bắt rễ vào thông giao đều không có căn bản đầy đủ vì chân lý chỉ bắt đầu với hai người mà thôi. Do đó, triết lý đòi buộc phải luôn luôn tìm sự thông giao, phải vượt qua những rào cản cá nhân để đi tới thông giao, và sống với hy vọng rằng: một cách bất ngờ khó lường được, sự hữu của tôi lại có thể được phong phú gấp đôi, nếu tôi biết từ khước nó để thông giao với người khác.[29]

Vì thế, theo triết gia Jaspers, một con người muốn sống ý hướng triết lý phải nhìn rõ được những chệch hướng và phải thắng vượt được chúng. Lắm khi những chệch hướng ấy còn được người ta biện minh bằng chính những nguyên tắc triết lý. Nghĩa là dục vọng lại thường được che đậy bằng những châm ngôn hay ý tưởng tự xưng là có sức mạnh hướng dẫn cuộc đời, ví dụ: đáng ra triết lý là biết sống thanh bình thì lại chệch hướng sang sống thụ động; hay sống là biết tín nhiệm, tin tưởng thì lại trở thành một tin tưởng mù quáng vào hòa âm của vạn vật. Triết lý là biết chết, lại biến thành một thái độ trốn tránh cuộc đời; hay sự khôn ngoan lại thoái hóa thành lối sống phóng đãng, dửng dưng. Tóm lại, những gì hoàn hảo nhất lại trở thành vô giá trị. Thay vì muốn thông giao với người khác, người ta lại lừa dối mình và ẩn nấp đằng sau những tranh chấp mâu thuẫn. Người ta ước ao được tha thứ nhưng người ta lại cứ khăng khăng tự phụ rằng mình hoàn toàn tự tin vì đã nhìn rõ vấn đề. Người ta cứ nổi giận sống theo bản năng giật gân, nhưng người ta lại cứ đòi hỏi quyền sống như một chủ thể tự do. Một đàng cứ dùng những mánh lới và kế hoạch để kín đáo tự vệ; một đàng lại bi bô tuyên bố rằng: mình sẵn sàng đối thoại không do dự. Đang khi cứ chủ quan nghĩ tới mình, người ta lại tưởng rằng mình khách quan, vô tư. Đó là những chệch hướng.[30]

Mặt khác, chính trong tinh thần đối thoại cởi mở hoàn toàn với nhau một cách thành thực mà chúng ta gặp được sự đồng thuận của người khác. Dù rằng, theo triết gia này, sự thông giao đối thoại cũng không thể thực hiện một cách đầy đủ và hoàn bị. Nhưng chính sự tin tưởng rằng: có thể đi đến thông giao lại là sức mạnh làm cho triết lý sống và hướng tới chân lý: “Thật vậy, hy vọng thông giao cũng là một sự tin tưởng chứ không phải một điều có thể học biết được. Nên khi lầm tưởng rằng mình đã nắm được thông giao trong tay là khi người ta đã đánh mất nó rồi.”[31]

  1. Thông giao trong sự tồn tại của thực thể

Sống trong một cuộc đời đầy những sự đổi thay và chóng qua, con người hiện sinh đích thực ý thức và đặt ra cho mình những câu hỏi: tôi hiện diện giữa thế gian này để làm gì?  Tại sao lại hiện diện ở đây? Tôi phải sống thế nào cho đúng là tôi? Tôi không tự mình mà có, vậy ai đã tạo dựng nên tôi và sau khi kết thúc cuộc sống trần thế thì cái chủ thể bất toàn này sẽ đi về đâu?

Sau khi đặt ra những câu hỏi như thế, hiện sinh đi tìm kiếm lẽ sống đích thực cho mình. Nhưng tìm gì đây khi mà tất cả những điều mình đặt ra đều không có một câu trả lời nào. Càng đi vào tìm hiểu, ý thức của bản thân về những câu hỏi đó càng mờ đi trong những sự vật nhìn thấy. Tôi càng ý thức và chăm chú để giải nghĩa những câu hỏi đó trong những hoàn cảnh, cũng như trong các sự vật thường nghiệm hằng ngày hiện diện ra trước mắt thì chỉ được trả lời bằng một sự im lặng. Càng tìm hiểu tôi càng thấy vật này, vật kia, đối tượng này đối tượng kia mà không thấy gì ngoài những sự vật đó. Đó là lý do vì sao khi nhìn về bản thân, triết gia Jaspers cho rằng sống hiện sinh cần phải có thông giao, như vậy mới thực hiện ý nghĩa làm người trong tương quan đối với người khác, chứ không phải như hai sự vật vô linh không cảm xúc:[32]

“Tôi chỉ sống khi sống với người khác. Một mình, tôi không là gì cả. Nên thông giao không chỉ là thông giao bằng lý trí với lý trí, hay bằng tinh thần với tinh thần, mà còn bằng hiện sinh với hiện sinh. Với sự thông giao này, những ý nghĩa và giá trị do những sự vật vô linh đem lại chỉ được coi là những trung gian. Ở đây, cả thái độ biện hộ cho nhau, cả thái độ tấn công nhau, đều không phải để chinh phục, chiến thắng nhau mà là để gần gũi nhau.”[33]

Điều mà vị triết gia này muốn nhấn mạnh là: thông giao có một ý nghĩa sâu xa hơn những cuộc giao thiệp, tiếp xúc giữa cá nhân với cá nhân… Sự tiếp xúc ấy chỉ là thể hiện của thông giao, là dấu chỉ cho một đòi hỏi, người ta gọi đó là hữu thể luận của thông giao. Sống giữa cộng đồng, con người không thông giao sẽ không nhận thức được bản thân mình. Chỉ trong thông giao con người mới thật sự tìm thấy lẽ sống, tự do sống bên cạnh con người tự do, đối lập chứ không đối kháng. Hơn nữa, trong thông giao mọi, chân lý được thể hiện và tôi mới thật sự là tôi, sống trọn ý nghĩa cuộc đời. Thông giao có tri tính kiến tạo không những kiến thức rời rạc, mà còn kiến tạo toàn bộ hiện sinh. Nói khác đi, thông giao là do tự do, nhưng cũng là một tất yếu của tự do. Tự do và thông giao là hai từ ngữ liên phương.[34]

  1. Giới hạn của thông giao

Mỗi người có một nét độc đáo, riêng biệt, nhưng không phải là cô độc. Hiện sinh của tôi phải hoà hợp với hiện sinh khác thì mới trở nên chính mình được. Vì vậy, thông giao là quá trình đòi buộc phải tìm kiếm hoàn thiện cho bản thân cũng như cho tha nhân. Tuy nhiên, trong quá trình thông giao cũng gặp một số những giới hạn.

Theo tác giả Lê Thành Trị, hoàn cảnh biên cương là giới hạn của sự thông giao.[35] Sinh ra mang thân phận kiếp người, bị bao vây, mắc kẹt trong một tình thế do mãnh lực vật lý, xã hội, văn hóa… tạo ra. Những mãnh lực ấy làm nên cái mà Jaspers gọi là hoàn cảnh. Hoàn cảnh không là đối tượng của nhận thức, vì chính người nhận thức làm nên hoàn cảnh và ở trong hoàn cảnh. Nói cách khác, hoàn cảnh là điều kiện tiên quyết khả thể hóa nhận thức trong từng lĩnh vực như vật lý, tâm lý… Chẳng hạn, cá sống trong nước, người là một hữu nhập thế (l’être au monde). Vì nhập thế nên con người được mời gọi biến diễn theo hoàn cảnh, tự tạo theo hàm số của hoàn cảnh. Không những thế, con người còn phải tạo ra hoàn cảnh, nhờ tự do và tâm trí của mình. Đó là những môi trường luật pháp, chính trị, kỹ thuật do chính con người tạo ra. Nhập gia tùy tục, con thuyền nhân hữu không đóng sẵn một lần, nhưng hình thành và kiện toàn ngay trong lòng thế sự và nhân sự. Không phải là một hoàn cảnh nào đó đủ định nghĩa hiện sinh, nhưng là chính sự nhập thế. Sự bất khả thể vượt ra ngoài “định luật” ấy, làm nên cái mà Jaspers gọi là hoàn cảnh biên cương. Gọi là hoàn cảnh vì ta sinh vào đó, ở trong đó. Gọi là biên cương, vì ta như con chim mắc lưới, không có chỗ nào thoát ra được.[36] Hơn nữa, chúng ta không một lần và một lúc, nắm được toàn bộ kiến thức, và giao tiếp với mọi người, mọi xã hội. Do đó, mà có những vũ trụ quan dị biệt, những phong tục, tập quán không đồng đều.[37] Điều này đã ảnh hưởng đến quá trình thông giao. Việc thực hiện thông giao còn phụ thuộc vào những điều kiện mà mình không thể bắt buộc. Một điều mặc định của thông giao là không có người khác, chúng ta không thể trở thành chính mình, và trong tất cả những người mình thông giao không phải ai cũng là bạn mình và họ sẵn sàng từ chối thông giao dù mình luôn sẵn sàng. Những cảm xúc đau, buồn, cô đơn hay những cảm giác tội lỗi giăng kín… là rào cản quá trình đạt đến thông giao trung thực.

Sau khi tìm hiểu khái niệm về thông giao theo Karl Jaspers, chúng ta cùng xem trong quá trình thông giao, dù rằng con người luôn phải đối diện với những thách thức, nhưng vẫn luôn có một tâm hồn cởi mở. Điều này chính là vai trò của “thông giao” trong triết học hiện sinh.

II. Vai trò của “Thông giao” trong triết học hiện sinh

  1. Đơn độc và thông giao

Một hiện sinh chỉ thực sự hiện hữu khi có sự gặp gỡ và thông giao với hiện sinh khác, vì sống là sống “cùng”, sống “với” và sống “cho” người khác. Không ai là một ốc đảo cho riêng mình, nhưng là một hữu thể có xã hội tính. Đó là mối dây liên kết mọi người lại với nhau. Triết gia Jaspers cho rằng: trong thông giao, nếu chúng ta không tự lập, tự đứng vững, thì sẽ hoàn toàn lạc lõng và mất phương hướng về thông tin. Khi chúng ta bắt đầu cô lập bản thân, các mối quan hệ của chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn, thậm chí không có mối tương quan xã hội nào. Cô độc không giống như cô lập xã hội. Vị triết gia này đưa ví dụ: nếu một người trong một bộ lạc nguyên thủy thiếu ý thức về bản thân, anh ta sẽ bị đuổi ra khỏi bộ lạc. Tuy vẫn tiếp tục sống nhưng anh ta sẽ có cảm giác chán nản, tuyệt vọng về sự tồn tại của mình. Không được bộ lạc che chở hay bị ruồng bỏ sẽ làm cho anh ta đơn độc, bởi vì anh ta không phải là chính mình, không còn đảm nhận những vai trò của mình trong bộ lạc. Với triết gia Jaspers, đơn độc là trong đó chúng ta chưa phải là chính mình, chưa đảm nhận những vai trò mà chúng ta phải có trong một cộng đồng.[38] Ngoài ra, đứng giữa muôn vàn sự tồn tại, sự đơn độc có thể đột nhiên đứng trước mình khi trong quá trình thông giao chúng ta không bộc lộ bản thân mình trước người khác, một lúc nào chúng ta sẽ cảm thấy trống rỗng, tuyệt vọng khi mọi thứ dường như sụp đổ, vì tất cả quá trình thông giao mang tính giả tạo, dẫn đến xảy ra nghi ngờ giữa: các mối quan hệ xã hội; bạn bè; thông tin liên lạc. Do đó, những mối liên hệ xã hội chỉ mang tính thẩm mỹ và hòa tan vào các hình thức xã hội. Sau đó, chúng ta có thể nói rằng “chúng ta đơn độc”. Hoặc chúng ta rơi vào tình trạng đơn độc khi bên cạnh là những người không hiểu mình và tất cả những người chúng ta từng chung sống đều đã chết, khi chỉ còn lại mỗi chúng ta. Và cho đến lúc chúng ta phải sẵn sàng cho những mối thông giao mới.[39]

Bên cạnh đó, triết gia Jaspers cho rằng thông giao luôn diễn ra giữa hai hiện sinh, nhưng vẫn là hai, những người đến với nhau từ sự đơn độc. Chúng ta sẽ không thể là chính mình nếu không tham gia vào thông giao, và không thể đi đến thông giao mà không thấy đơn độc.[40] Những lợi ích xã hội gắn kết các hiện sinh lại với nhau và những cảm giác đau buồn dẫn đến khát khao thông giao[41] để chia sẻ với người khác. Hơn nữa, khi con người thông giao với người khác, chiều kích “biết mình” được mở ra. Chúng ta sẵn sàng đón nhận những góp ý, xây dựng, từ người khác, nên cần phải tự chủ, nhẫn nại. Do vậy, Jaspers cho rằng: chúng ta nghe người khác, nhưng không phải để phục tùng mà để nâng đỡ nhau tiến đến hiện sinh đích thực.[42] Như vậy, sự nâng đỡ cần thiết cho cả hai bên, bên giúp và bên được giúp một cách đối diện nhau. Quả thực, thông giao không chỉ để phê phán, thanh lọc, mà còn gặp gỡ và giúp đỡ. Người này cần sự giúp đỡ của người kia, và ngược lại, đôi bên tương trợ nhau. Gặp gỡ và giúp đỡ nhau là hiện sinh, chứng tỏ được sự đối thoại của hai hiện sinh. Sự hiện diện, thái độ sống là một sự giúp đỡ. Thông giao giúp chúng ta khám phá ra giá trị hiện diện nơi mỗi người, vì “lúc ấy là họ gặp chân lý và trong tinh thần cởi mở rộng rãi hoàn toàn không nghi kỵ, họ còn gặp thấy ở người khác được một chứng cứ cho chân lý, chứng cứ họ không chủ ý tìm, nhưng khi đối thoại với nhau thành thực thì thường lại gặp được sự đồng thuận của người khác.”[43]

Ở điểm này, chúng ta nhận thấy mối tương quan với người khác thật đặc biệt. Vì ở đây người khác đóng một vai trò cần thiết để lắng nghe sự cởi mở. Như thế, thông giao tất nhiên không nghi kỵ nhưng đòi hỏi một sự lắng nghe tối đa, cởi mở toàn diện. Mỗi bên đều phải cởi mở, đều phải lắng nghe. Nghe là lúc chúng ta đón nhận, cởi mở là lúc chúng ta bày tỏ bản ngã của mình, là lúc chúng ta chia sẻ những ưu tư lo lắng. Cởi mở là cho đi, lắng nghe là tiếp nhận. Như vậy, thông giao thật sự có ý nghĩa. Chân lý mà họ gặp được ở đây đúng là sự đồng cảm của hai hiện sinh, chia sẻ cho nhau những băn khoăn thao thức, những vui buồn, thành công và thất bại của chính mình. Chúng ta có thể nói sự đồng cảm của hiện sinh là biết thông giao, họ biết làm cho mình lớn lên về nhân cách, sống tích cực “là tôi” trong tương quan với người khác. Tuy nhiên, Jaspers cho rằng cần phải cẩn trọng, bởi lẽ thông giao không phải là yêu sách tối hảo để tránh đi sự tự mãn: “cả sự thông giao cũng không thể thực hiện được đầy đủ và hoàn bị bao giờ. Nhưng chính sự tin tưởng rằng: có thể đi đến thông giao là sức mạnh làm cho triết lý sống.[44]

Ngoài ra, khi suy niệm trong đơn độc và thông giao, chúng ta tìm được ý hướng sống triết lý. Nghĩa là, trong thế giới ngày nay, một thế giới được chỉ định bằng đồng hồ, được phân sắp theo công việc làm ăn. Nên càng ngày chúng càng không đáp ứng nổi những ước vọng sâu thẳm của lòng người. Do đó, sau cùng con người có cảm tưởng như mình chỉ còn là một bánh xe đang chờ đợi được ráp vào một bộ máy khổng lồ nào đó. Đứng lẻ loi, họ không còn đáng giá gì cả và cũng không còn biết làm gì. Và đôi khi nếu có tự ý thức được một giây lát, thì lập tức “ông khổng lồ” của thế giới này lại tóm cổ họ và lại đem họ ráp vào bộ máy nghiền nát, rồi họ lại cứ phải nai lưng làm ăn vất vả trong trống rỗng và cứ sống với những ước vọng hão huyền. Không những thế, con người chúng ta mang sẵn khuynh hướng vong thân. Vì vậy, để khỏi bị tiêu tan đi trong thế giới, trong những tập quán, biểu ngữ công cộng, đường mòn khô khan, thiết yếu con người phải cương quyết tự giải thoát (tức là biết sống triết lý). Vậy sống triết lý là phải quyết định - làm trào vọt lên trong chính mình nguồn suối mới - tìm lại được con đường suy tư nội tâm của mình - tự nâng đỡ mình bằng một hành động bên trong với tất cả khả năng của mình.[45]

Suy niệm trong đơn độc bằng tinh thần trầm tư theo mọi hình thức của nó; thông giao với người khác bằng một tinh thần hiểu biết lẫn nhau, bằng sự làm việc cộng đồng với nhau, tương tác bằng ngôn ngữ hay cùng nhau im lặng.[46] Là người, cần thiết mỗi ngày chúng ta phải dành ra một ít giây phút để suy niệm cho thâm trầm. Nhờ đó, chúng ta mới chắc tâm sống được và tiếng reo âm ỉ trong nguồn suối thầm lặng của tâm hồn, mới khỏi bị dập tắt trong cơn lốc bất đắc dĩ của thời đại.[47] Suy nghĩ về chính mình, nghĩa là phải ôn lại những gì chúng ta đã làm, đã nghĩ, đã cảm trong ngày. Kiểm điểm xem có gì sai, vào lúc nào chúng ta đã không thành thực với chính mình, hay đã lẩn trốn hoặc thiếu thanh liêm? Phải ôn lại những điểm nào chúng ta đồng ý với chính mình, và về những điểm nào muốn tiến lên cao hơn nữa. Ý thức về thái độ tự kiểm của chúng ta đối với bản thân. Tự phán xét hành động riêng biệt nào đó của chúng ta thôi, chứ không phải về toàn diện sự hữu của chúng ta, vì sự hữu ấy không thể nào đạt tới được. Khám phá ra được những nguyên tắc để chi phối lối sống và có lẽ, chúng ta phải ghi vào ký ức một số châm ngôn để thầm nhắc nhở bản thân lúc nổi giận, thất vọng, chán nản hay lạc hướng, như những công thức ma thuật để giúp chúng ta trở lại thanh bình (ví dụ những câu: hãy bình tĩnh - hãy nghĩ tới người khác - hãy chờ đợi có Thiên Chúa kia kìa).[48]

Nói tóm lại, chúng ta được đảm bảo tồn tại trong một xã hội với cơ chế luật pháp. Như vậy, khi mang cảm giác đơn độc, chúng ta cần đến thông giao, ngay cả những người không quen biết cũng có thể thông giao và tôn trọng nhau, do vậy mà mọi chân lý xuất hiện. Thế giới mà nhiệm vụ của mỗi người vẫn là tiến gần đến nhau trong việc mở rộng mối tương quan giao tiếp. Tuy nhiên, hiện sinh không phải chỉ dừng lại đó, mà còn phải vươn lên, phải đấu tranh yêu thương mới có thể gìn giữ được tính trung thực của mỗi hiện sinh.

  1. Cuộc đấu tranh yêu thương

 Đấu tranh là khi xuất hiện đối lập giữa hai vấn đề thiện và ác, hay những vấn đề khác như: kinh tế; chính trị - xã hội; giai cấp; sinh tồn… Như thế, con người không bao giờ ngừng đấu tranh. Bước vào quan điểm đấu tranh trong thông giao được Jaspers đưa ra là đấu tranh trong tình yêu thương. Tình yêu trong thông giao không phải là tình yêu mù quáng, bất kể đối tượng của nó là gì, nhưng là tình yêu đấu tranh, nghĩa là đấu tranh trong tình huynh đệ. Nhưng vừa đấu tranh vừa thỏa thuận trao đổi khí giới cho nhau. Chỉ trong thông giao như thế mới chắc chắn sống thật sự, vì ở đây con người tự do sống bên con người tự do, đối lập mà không đối kháng vì đã hoà hợp với nhau.[49]

Theo triết gia Jaspers, cuộc đấu tranh yêu thương này là cuộc đấu tranh của một hiện sinh với một hiện sinh khác. Nó không giống như cuộc đấu tranh sinh tồn, mà trong đó tất cả vũ khí đều được sử dụng và những trò lừa bịp cũng như gian lận trở thành điều không thể tránh khỏi, trong đó đồng loại bị coi như kẻ thù, đơn giản là một phần của “không phải tôi”, giống như bản chất phản kháng. Cuộc đấu tranh giữa hai hiện sinh xảy ra do những khác biệt với người khác. Đó là cuộc đấu tranh trong đó cả hai hiện sinh dám thể hiện cái tôi của mình mà không cần sự phòng vệ, cũng như không cho phép bản thân bị nghi ngờ.[50] Cuộc đấu tranh này không diễn ra theo kiểu chính trị, kinh tế, ngôn ngữ, tôn giáo… nhưng biểu thị thái độ hay nhân cách sống bình đẳng của hai con người.

Trong cuộc đấu tranh này không bao giờ hướng đến sự vượt trội và sự chiến thắng của hiện sinh này so với hiện sinh kia. Nếu những thứ này đạt được họ sẽ cảm thấy lo ngại, thậm chí là đáng trách, nhưng sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai hiện sinh được tìm thấy trong các vấn đề đang được đề cập, hoặc trong những phương tiện giao tiếp. Mỗi hiện sinh phải tự bước vào chính mình cùng với hiện sinh kia. Cuộc đấu tranh không được tiến hành khi hiện sinh này chống lại hiện sinh khác. Nhưng để hướng đến sự thật, nó phải là một cuộc chiến chung chống lại chính mình và người khác. Hơn nữa, cuộc đấu tranh được tiến hành ở mức độ hoàn toàn bình đẳng. Nếu kho “vũ khí kỹ thuật” của các hiện sinh khác nhau, nếu một người hiểu biết hơn hoặc thông minh hơn người kia, có trí nhớ tốt hơn hoặc ít bị chi phối, cả hai sẽ cân bằng cấp độ bằng cách đánh bại chính mình, nghĩa là từ bỏ cái tôi của mình, để cuộc đấu tranh diễn ra ngụ ý sự thừa nhận lẫn nhau và xây dựng sự đoàn kết, nhưng vẫn khẳng định sự độc lập của nhau. Quy tắc của sự đoàn kết này là hiện sinh có sự liên kết sẽ tin tưởng nhau tuyệt đối, và cuộc chiến của họ không phải là cuộc chiến khách quan mà những người khác có thể nhìn thấy và đứng về phía nào, nhưng là cuộc đấu tranh vì sự thật của mỗi hiện sinh, chứ không phải vì một giá trị chung nào.[51]

Trong khi thông giao phải đấu tranh, vì mỗi hiện sinh không thể nào ù lì, thụ động, mà đôi bên phải hành động, phải nói lên quan điểm, tính cách của mình. Do đó mà mỗi người có liên hệ đến nhau: “những mối giây liên hệ với người khác là những con đường gần gũi nhau trong những giây phút quyết liệt và cả hai đòi hỏi bên kia phải nêu lên những thắc mắc cốt tử.”[52] Nghĩa là những vấn đề chính yếu của hiện sinh được nêu ra. Như thế, con đường gần gũi nhau và nêu lên những thắc mắc cốt tử, điều đó chỉ diễn ra trong cuộc đấu tranh yêu thương, cuộc sống đòi hỏi mỗi hiện sinh phải như thế. Những giây phút quyết liệt là giây phút hiểu được chính mình. Nếu không có sự đấu tranh quyết liệt một trong hai bên sẽ rơi vào tình trạng phi hiện sinh, nghĩa là một trong hai hiện sinh dường như muốn dậm chân tại chỗ. Như vậy, thông giao đấu tranh sẽ không đạt được hiệu quả thậm chí chỉ gây nên những phiền toái. Sự tích cực của thông giao đấu tranh nhằm thăng tiến phẩm vị con người, và muốn được như thế, đòi hỏi mỗi hiện sinh không ngừng sát cánh bên nhau, chấp nhận sự phê phán, nêu lên những thắc mắc cốt tử. Nhờ thế, ta mới có thể bổ khuyết cho nhau. Hơn nữa, con người sống bên nhau để hỗ trợ những mặt còn hạn chế, những gì chưa đạt tới, chấp nhận hy sinh, đòi hỏi nhẫn nại, can đảm dấn thân trong cuộc sống với người khác mà không thoái lui lùi bước, nhưng được củng cố tiến sâu thêm mãi. Bởi lẽ, con người luôn sống bên nhau, luôn cần đến người khác, hiện diện với người khác. Với sự thông giao này, ý nghĩa và giá trị do những sự vật vô linh đem lại chỉ được coi là trung gian.[53]

Như vậy, thông giao đấu tranh có giá trị tích cực ở chỗ không một hiện sinh nào tự cho phép mình an phận, không cần phấn đấu, không cần phải lao thân khổ tứ. Nói cách khác, thông giao đấu tranh vạch ra đường lối cho mỗi hiện sinh can đảm tôi luyện và sống trọn vẹn con người thật của mình.

  1. Thông giao và tình yêu

Có thể ví thông giao như mạch nước tuôn trào, làm cho cuộc sống không khi nào ngưng trệ và bế tắc; là mối dây liên kết sự thiện hảo của hiện sinh đi vào tìm hiểu, khám phá chiều sâu của chính hiện sinh. Thông giao muốn quảng diễn sự phong phú, đa dạng của mỗi người, cũng như diễn tả tính chất ưu việt của con người mở rộng tâm hồn để đón nhận và cũng là để trao hiến tình yêu với người khác.

Nét nổi bật nhất của hiện sinh là thông giao, nghĩa là sự cởi mở của hiện sinh với một hiện sinh khác. Thật vậy, con người không thể chỉ sống một mình, thông giao làm cho chúng ta thoát khỏi những bế tắc của cuộc sống, giúp chúng ta bớt đơn độc, không co cụm khép kín lại ở chính mình, không bảo thủ và cứng nhắc trong mọi vấn đề. Thông giao làm cho chúng ta biết đồng cảm, biết đối thoại, biết tìm kiếm sự thật, yêu chuộng lẽ khôn ngoan. Thông giao trở nên độc đáo của mỗi hiện sinh, chất chứa một tình yêu không dừng lại ở chính mình mà vươn ra với người khác. Vì vậy, triết gia Jaspers cho rằng bản thân mỗi hiện sinh là sản phẩm của thông giao.[54] Hơn nữa, thông giao phải là cơ hội để bổ túc cho những giới hạn mà con người hầu như không thể đạt đến, cái chưa đạt đến trở thành cái lý tưởng cho hiện sinh. Có lẽ cái nó đạt đến thì chẳng còn gì là lý tưởng cho hiện sinh. Tư tưởng hiện sinh thông giao của Jaspers trở thành lý tưởng đẹp nhất, dễ nhất mà cũng khó thực hiện nhất.[55]

Quả thực, chúng ta thấy thông giao đẹp và lý tưởng cho mỗi hiện sinh. Làm sao một cái ly đậy nắp có thể rót cho đầy nước. Cũng vậy, hiện sinh không thể như một cái ly đậy kín mà phải mở ra. Sống thông giao nghĩa là mở ra với một hiện sinh khác để được rót tràn tình thương bác ái. Thông giao làm cho hai hiện sinh được hài hoà. Con người hiện sinh sẽ đạt tới chân lý vĩnh cửu, sự hoàn thiện khi thông giao thực sự trở thành điểm tựa cho mỗi hiện sinh vươn lên. Hiện sinh vươn lên và vượt qua mỗi hoàn cảnh để hoàn thành sứ mệnh của đời mình cho có nghĩa. Đồng thời, hiện sinh không tách mình ra khỏi những hoàn cảnh mà cùng với hoàn cảnh đi tới cùng đích của cuộc đời, làm cho hiện sinh thấu tình đạt lý. Hơn nữa, hiện sinh cũng không chối bỏ những giới hạn, những bất toàn của mỗi người, vì hiện sinh sống trong thế giới này, chứ không phải là một thế giới nào khác. Do vậy, triết gia Jaspers nói rằng:

“Nhờ thông giao, chính những gì tôi không đạt được bằng sức mạnh, lại có thể thành sự thực cho tôi, mà không ai ngờ và tính toán nổi, ví dụ tình yêu được sáng suốt; thần minh càng hiện ra qua những hình ảnh tiềm ẩn và luôn luôn bất định, có khi còn hơn thế nữa, tôi còn được hưởng thụ một sự bình an trong tâm hồn. Tuy nhiên, cũng không vì vậy mà đời tôi trút sạch hết được lo âu, một sự tín nhiệm vào căn đề của vạn vật, mặc dầu muôn ngàn đau khổ và tai ương rùng rợn, một thái độ cương nghị bất khuất trong khi quyết định mỗi việc gì, mặc dầu những dục vọng của tôi luôn luôn muốn thay đổi, một lòng trung thành sắt đá giữa muôn ngàn những quyến rũ xảy ra mọi giây phút do những ảo ảnh của trần gian gây ra.”[56]

Hơn thế nữa, đấu tranh thúc đẩy thông giao làm cho tình yêu vốn chân thành và quảng đại, biết chấp nhận hy sinh, chứ không chỉ đứng bên lề hiện sinh mà ngắm nhìn thông giao như khán giả xem bóng đá. Theo tác giả Lê Thành Trị, sẽ không còn là thông giao khi hai người mất hết mọi cá tính độc đáo, điều đó không thể xảy ra. Sự đơn độc ấy là một khiếm khuyết. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là sao chẳng thể hiểu người dù rất muốn hiểu? Sao người khác không chịu hiểu mình? Làm sao để dung hòa hai yếu tố đó? Jaspers tìm ra được một lối thoát cho sự bế tắc ấy: đó là con đường tình yêu. Yêu là gì? Trong ý niệm yêu có hai yếu tố đối lập giằng co: dị và đồng, hoạt động theo luật hòa nhi bất đồng. Bởi vì, một khi đã đồng nhất thì yêu thương sẽ không còn nữa. Nói khác đi, có chấp nhận dị biệt cá thể thì mới có tình yêu. Yêu thương là môi trường hòa hợp cá thể và làm cho cuộc đời bớt đơn chiếc lẻ loi. Mặc dầu yêu nhiều khi không thỏa mãn ai, nhưng cần phải bù đắp bằng tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đưa con người đến gần nhau. Chỉ trong tình yêu người ta mới thấy mình không vắng lạnh.[57] Tiếp đến, theo tác giả Triết học hiện sinh Trần Thái Đỉnh, đấu tranh càng quyết liệt, thông giao càng sâu xa và bền chặt! Những mối tình thiếu xung khắc là những mối tình thiếu sâu sắc: đó như là những thức ăn chưa được nêm gia vị. Tuy nhiên, nếu sự xung khắc mà thắng thì làm sao gọi là tình yêu được nữa. Cho nên Jaspers nhấn mạnh đến cả hai yếu tố thông và giao bằng nhau. Thường tình chúng ta chỉ nghĩ đến những mối thông giao dễ dàng, không đấu tranh, không có xung khắc, nhưng đối với Jaspers, những thông giao này còn thiếu tính chất hiện sinh. Bởi vì thông giao đặt nền trên hiện sinh và trên cuộc đấu tranh thương yêu của hai hiện sinh. Đây là một thực tại bị giằng co giữa giao và thông, giữa tình trạng hai mà một, và một mà hai. Điều đó nói lên sự tôn trọng nhân vị tha nhân, tôn trọng sự khác biệt của tha nhân nhưng vẫn có thể hoà hợp sự khác biệt đó. Vì thế, nếu chỉ là một (vì một bên dám coi bên kia là sự vật như trong trường hợp độc tài; hoặc một bên đã tự thoái vị hiện sinh, như trong trường hợp nhường bộ thụ động) thì không có thông giao, nhưng nếu tách rời là hai thì cũng không có thông giao. Cho nên phải hai mà một, và một mà hai: “Ái tình là hiệp nhất, cho nên chỉ có ái tình khi có hai. Ái tình làm ta hy vọng thể hiện được mối hiệp nhất, nhưng chúng ta chỉ thể hiện được mối hiệp nhất khi nào chúng ta nhận thức tính chất thực tại là hai của chúng ta.”[58]

Tóm lại, trong cuộc sống trần gian, thông giao là một chuyển động tràn đầy tình yêu thương. Nó mang lại sự bảo trợ cần thiết để bước vào chính con người thật của mình, mỗi người chúng ta đều mang trên mình là “chủ nợ” và “con nợ”. Tình yêu chưa phải là thông giao, nhưng là bước nền để tiến đến thông giao trung thực. Tình yêu đích thực là tình yêu bất khả phân ly, qua thông giao chúng ta tiếp tục chia sẻ về kinh nghiệm sống, không chỉ là những cảm xúc vui buồn mà ngay cả con người thật của mình. Không có thông giao hiện sinh thì tất cả tình yêu đều là nghi ngờ. Mặc dù thông giao không tạo nên tình yêu, nhưng không có tình yêu nào mà không có những thử thách của thông giao. Sự đổ vỡ cuối cùng của thông giao là sự kết thúc của tình yêu. Như thế, tình yêu là một sự si mê, thông giao không thể ngừng mà phải thay đổi hình thức của tình yêu,[59] để hiện sinh cùng nhau hướng đến chân lý.

Thực tế thông giao còn gắn liền với những vai trò xã hội, những tình huống trong đó một hiện sinh có thể gặp một hiện sinh khác trong khuôn khổ xã hội, chúng ta cũng không nằm ngoài những tình huống xã hội này. Do đó để hiểu rõ hơn về thông giao, chúng ta cùng tìm hiểu về các mối tương quan của thông giao.

III. Các mối tương quan của “thông giao”

  1. Chủ nhân và người hầu

Là một nhà tâm lý, triết gia Jaspers thấu hiểu phần nào cuộc sống nhân sinh của con người, cũng như ý thức được nền tảng thâm sâu trong mỗi hữu thể. Điều này y học hay khoa học tự nhiên không thể nghiên cứu một cách tường tận. Quan điểm triết học hiện sinh của Jaspers không chỉ là một cá nhân theo nghĩa sinh vật hay như một ý tưởng mà tất cả những gì cao cả nhất và bi đát nhất của thân phận con người. Hiện hữu đối với con người không phải là có đấy một cách trực tiếp, nhưng là một khả năng hiện hữu, con người không bao giờ là thế đó nhưng luôn luôn là khác hơn, cái khác, cái hơn đó thể hiện những hành vi, ước muốn, tìm kiếm quyền lực, địa vị xã hội trong sự hiện hữu của mình, mà triết gia này gọi đó là mối quan hệ chủ nhân và người hầu.[60]

Hoạt động xã hội của con người bao gồm một cơ cấu, hệ thống với những ước muốn, năng lực và các phương tiện cần thiết để đạt được mục đích, thể hiện điều khát khao của mình. Mọi hành động của con người xuất hiện như một biểu lộ của năng lực sống. Chính ước muốn quyền lực cũng là năng lực sống. Tuy nhiên, theo triết gia Jaspers, mối quan hệ quyền lực này không áp dụng cho mối quan hệ chủ - nô, nghĩa là những người sử dụng con người như một công cụ lao động và chế ngự họ bằng vũ lực.[61] Nhưng mối tương quan chủ nhân và người hầu ở đây mà Jaspers muốn nói chính là mối tương quan cấp trên và cấp dưới trong công việc. Theo triết gia này, thông giao thực sự sống động khi có yếu tố tâm lý tác động, tức là việc đối xử tử tế với cấp dưới và khiêm tốn với cấp trên. Mối quan hệ hỗ tương trong việc trung tín và phục vụ, việc đảm nhận trách nhiệm của một người cấp dưới và thể hiện sự tôn trọng đối với cấp trên.[62] Điều quan tâm của thông giao hiện sinh, trong mối quan hệ này, không phải là sự phụ thuộc mà là việc cảm thấy thỏa mãn bản thân của cấp dưới trong quá trình thông giao không bình đẳng. Khi đó, theo những cách khác nhau, cả cấp trên và cấp dưới đều sẽ có cảm giác thoát khỏi sự đơn độc. Việc người cấp dưới thoát khỏi đơn độc là làm cho mình phụ thuộc vào quyền lực của cấp trên và hòa mình vào đó. Lối thoát của cấp trên khỏi cái tôi đơn độc là hòa nhập với những người cấp dưới, bằng cách khuất phục họ thực hiện những mục đích của mình. Cấp trên thoát khỏi sự đơn độc trong quá trình mở rộng bản thân, hòa nhập vào tập thể, nhưng vẫn giữ vai trò của người lãnh đạo. Như thế, không người cấp dưới nào có thể thực hiện được mục đích của riêng mình, nhưng thực hiện mục đích của tập thể.[63]

Đàng khác, người ta không dễ dàng nhận thấy hiện sinh là gì, ra sao và như thế nào. Bởi lẽ, cuộc sống sinh hoạt của từng chủ thể diễn tả những hình thái hiện sinh khác nhau. Con người là chủ thể, chủ thể biết suy tư, không phải một sự vật nào đó trong thiên nhiên, nghĩa là chúng ta không là một điều gì cố định nhưng luôn luôn chuyển động. Sự chuyển động đi liền với phán đoán làm cho chủ thể nhận ra mình độc đáo và có giá trị vươn lên. Vì là chủ thể nên có tự chủ và tự quyết. Là chủ thể, chúng ta đi trên một con đường và con đường này cho chúng ta thể hiện bình diện ngã vị của mình, nghĩa là tôi là tôi, một nhân vị tự do cá biệt, không phải là sự vật. Bên cạnh đó, cũng có thể hiểu hiện sinh như là sự sinh hoạt tinh thần của một chủ thể đã giác ngộ và ý thức sâu xa về chủ thể tính cũng như quyền lợi và nhiệm vụ của mình. Theo tác giả Nguyễn Trọng Viễn:

“Cuộc sống không phải là cái gì phụ thuộc thêm vào cho con người nhưng chính là nơi con người phải hoàn thành vận mạng của mình. Cuộc sống thực của đời này là thách đố chính yếu của con người. Nói cách khác, con người chỉ thực sự xác định được ý nghĩa đời mình khi thể hiện lựa chọn của mình trong cuộc sống. Đời sống con người không phải là một hệ thống suy tư, hay diễn giải ra từ một hệ thống những định lý, chứng minh. Vì thế, lý luận thì bất di bất dịch, còn cuộc sống sinh hoạt thì biến đổi không ngừng.”[64]

Do vậy, trong mối quan hệ chủ nhân và người hầu này, người cấp dưới thấy quyền lực của cấp trên không phải là bất khả xâm phạm, không chỉ là sự công nhận mình là thành viên đồng nhất của tập thể, mà là một ngày nào đó mối quan hệ này sẽ được xóa bỏ để có sự thông giao bình đẳng.[65] Mặt khác, cuộc gặp gỡ giữa cái tôi và cái tôi trên một cấp độ không phải là thông giao đích thực.[66] Dưới cái nhìn của Karl Jaspers, thông giao đích thực phải là cuộc gặp gỡ của hai hiện sinh đích thực. Một sự gặp gỡ đối diện, biết chờ đợi, khát khao, giúp đỡ và mong muốn ở bên nhau.

Như vậy, thông giao ở đây mang một ý nghĩa thâm thuý, thực hiện hết ý nghĩa làm người của mình với người khác. Quả thực, người ta có thể thực hiện trọn vẹn con người hiện sinh của mình như thế một khi đã yêu thương.

  1. Giao thiệp xã hội

“Cuộc sống là một sự phiêu lưu.” Sống là một sự phiêu lưu ẩn chứa trong bản thân nó những bất toàn, luôn có thể xảy ra những khủng hoảng, thảm họa mang tính cá nhân hay tập thể. Sống là không ngừng đối diện với điều không chắc chắn, kể cả điều chắc chắn duy nhất là cái chết, mà chúng ta không biết giờ nó đến. Chúng ta đi vào trong một thời đại của những bất toàn trong tương lai, gia đình, xã hội và cả nhân loại. Vì thế, theo triết gia Jaspers, dù chúng ta là ai, ở một địa vị xã hội nào hay có những điều gì làm vướng bận, thì các mối giao thiệp xã hội là điều kiện tồn tại và kiện toàn bản thân chúng ta.[67]

Theo triết gia này, quan hệ đời sống xã hội là điều kiện cần để tồn tại và kiện toàn bản thân, là những hình thức liên hệ vì những nhu cầu chung, để giúp đỡ, yêu thương và ở bên nhau không mục đích, sống vui tươi. Điều này cũng chính là cơ hội của thông giao, vì con người gặp gỡ nhau. Tương quan với người khác là cơ hội để trau dồi và phát triển các kỹ năng, cũng như thích nghi với điều kiện xã hội. Chúng ta trở nên cần thiết trong thông giao với người khác và ngược lại. Hai bên cần nhau, bổ túc qua lại cho nhau, lệ thuộc nhau không phải vì cùng đẳng cấp, địa vị hay quyền lợi, nhưng để phát triển nhân cách làm người. Điều đó xác định cách thức làm người trong thông giao với người khác. Cuộc sống sẽ trở nên tốt khi chúng ta và người khác được đón nhận với tất cả tâm hồn, thiện chí. Như vậy, thông giao với người khác có mục đích hỗ trợ nhau để đạt tới mức độ cao nhất là thể hiện được chính mình với tất cả tự do của mình với người khác. Con người cần thiết phải có nhau để nâng đỡ nhau “bằng trao đổi, bằng hiểu biết lẫn nhau”.[68] Bên cạnh đó, theo triết gia Jaspers, đối với một số hình thái xã hội chúng ta nhận ra rằng những người có thể tham gia vào thông giao, nhưng họ thấy việc gia nhập vào thông giao là không thể. Vì địa vị xã hội của một số hiện sinh không tương hợp cho một vài mối quan hệ ngẫu nhiên. Họ không thể thông giao hiện sinh với người đối diện, thậm chí với một người bạn, vì có sự chênh lệch về trình độ, xuất thân của hai hiện sinh. Vì vậy, sự gần gũi với tất cả hiện sinh không phải dễ dàng đạt được. Đây là lý do tại sao lại có sự phân tầng trong xã hội.[69] Nói cách khác là sự phân chia giai cấp, vì trong mỗi địa vị xã hội họ tìm được điểm chung, từ đó có thể thông giao với nhau để tồn tại. Tuy nhiên, để giảm bớt sự phân tầng trong xã hội cũng như có được thông giao bình đẳng, triết gia Jaspers đề cao khía cạnh giáo dục.[70] Theo triết gia này, giáo dục thúc đẩy sự phát triển và tiến bộ xã hội, nâng cao trình độ dân trí. Thêm nữa, khi chuyển từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, chúng ta cần nỗ lực tự giáo dục để thích nghi và cải thiện những hạn chế của bản thân.[71]

Mặt khác, cũng theo triết gia này, đời sống xã hội luôn tồn tại ở bất cứ nơi nào con người sinh sống. Mỗi nền văn hóa đều có những phương thức thông giao mà không một cá nhân nào không thể không tham gia. Ngày nay, những hình thức thông giao được cả thế giới chấp nhận là lịch sự và hòa nhã, thông giao một cách tự nhiên và linh hoạt. Khi thông giao không nên gây tổn thương cho người đối diện, nhưng khéo léo, thể hiện quan tâm, không áp đặt, tiết chế trong mọi hành vi. Ngoài ra, tránh kiêu ngạo để khẳng định vị trí của mình, không thể hiện sự thiếu tin tưởng đối với người đang thông giao, cũng như không nên tạo ra những hành động công khai có nguy cơ gây ra hiểu lầm. Tuy nhiên, tất cả những hình thức trên thế giới đã và đang làm, có thể tránh được sự xung đột trong thông giao, nhưng họ không thể dẫn đưa con người vào cuộc thông giao.[72] Nói cách khác, không thể có sự sắp đặt cho những cuộc thông giao. Trên thực tế, đời sống xã hội và thông giao hay cái tôi xã hội và khả năng tồn tại của bản thân gắn kết nhau một cách khó hiểu, không ít lần xảy ra những căng thẳng giữa chúng: những cuộc xung đột cá nhân để giành được sự thông giao trung thực là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong xã hội và kiện toàn bản thân. Cuộc xung đột này không phải vì địa vị xã hội, nhưng nó là cuộc đấu tranh cho chính chúng ta và trong chúng ta. Chẳng hạn như, tôi có xu hướng trở thành như cách mà người ta mong đợi ở tôi, và cuộc đấu tranh suốt đời mà tôi phải trả cho bản thân để chống lại khuynh hướng đó cũng giống như cuộc đấu tranh cho sự giao tiếp hiện sinh.[73]

Thật vậy, con người không phải là một thực thể thuần túy tinh thần, mà là một tinh thần kết hợp với vật chất, với thân xác. Qua thân xác con người liên kết chặt chẽ với thế giới.[74] Do vậy, con người cần đến người khác, vì hiện hữu với và kiện toàn chính mình trong sự thông giao với người khác để đến trong thế giới, trưởng thành, giáo dục… Con người không là hữu thể tự nhiên nhưng là hữu thể văn hóa, mà văn hóa không bao giờ là công trình của cá thể nhưng là của cộng thể xã hội. Lẽ đó, con người phải mở ra với người khác, những vẫn phải tự nhủ “hãy trở nên chính mình”.

 

  1. Tranh luận

Trong những tình huống thông giao thực tế, tranh luận là một trong những phương pháp nhằm đạt tới sự hiểu biết. Nói cách khác, mục đích cuối cùng của tranh luận là tìm kiếm chân lý, sự thật.[75] Nhờ tranh luận, con người mới có đấu tranh yêu thương chính nghĩa, dẫn đưa đôi bên đi tới ý hướng sống triết lý.

Thực trạng cuộc sống con người ngày nay dường như trôi theo nhịp điệu đều đặn của công việc thường ngày, không còn hàm chứa một tư tưởng tượng trưng nào,[76] nếu không muốn nói là chẳng có triết lý sống. Từ đó, tâm hồn con người trống rỗng, không được thỏa mãn. Vì ở đây càng tự do bao nhiêu thì con người đóng kín bản thân và theo dục vọng, buồn nản, lo âu và lãnh đạm lạnh lùng bấy nhiêu.[77] Do vậy, trong thông giao phải tranh luận để hướng tới sống triết lý, nghĩa là thoát ly khỏi tình trạng đêm tối, bị bỏ rơi và sống vô danh. Ý chí quyết sống theo ý hướng triết lý khởi nhóm lúc con người tự cảm thấy mình sống trong đêm tối, lầm lạc, nghĩa là những khi không còn biết yêu đời, họ đăm đăm nhìn vào những thực tại không tồn tại, trong tình trạng thất thế và vô danh, bị cuộc sống máy móc hàng ngày lôi kéo.[78] Tình trạng sống vô danh ngày càng bành trướng mạnh cùng với sức phát triển mau lẹ của kỹ thuật. Thế nên, chúng ta phải chú trọng và rút kinh nghiệm trong thông giao giữa người với người, lúc con người hạnh phúc hay khó khăn, khi họ thành công hay thất bại, trong giờ phút đêm tối và lo âu. Chúng ta không được lãng quên mà lại phải sống cuộc đời cho có ý nghĩa, không được phóng đãng mà lại phải củng cố kinh nghiệm nội tâm, không được coi dĩ vãng của mình như đã thanh toán xong, mà trái lại còn phải luôn luôn soi sáng nó mãi.[79]

Đàng khác, tranh luận là một phương tiện thông giao thực sự, tuy chưa phải là sự hoàn thiện. Cả hai hiện sinh tham gia tranh luận để làm rõ quan điểm, tư tưởng của mình, cả hai đều không biết đối phương của mình muốn gì, nhưng chính tranh luận giúp họ khám phá ra những vấn đề mà họ cùng đồng ý hoặc không đồng ý. Khi hai hiện sinh có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, nhưng đã được củng cố sự tin cậy, hình thức tranh luận là con đường làm sáng tỏ chân lý, sự thật không ngừng của bản thân với người khác. Sự bất đồng quan điểm không phải là sự chia rẽ giữa hai hiện sinh mà là việc gắn kết họ lại với nhau khi vấn đề được sáng tỏ. Trong khi thông giao, cuộc tranh luận hợp lý tự nó sẽ diễn ra không ngừng và như một biểu tượng của thông giao hiện sinh. Chân lý không thể đạt được trong những lối mòn suy nghĩ được tuân thủ chặt chẽ theo một định kiến nhất định. Vì thế, tranh luận là điều cần thiết và là sự thay đổi. Không có gì phải bàn cãi khi chúng ta đơn phương đối thoại với người khác mà không nhận được câu trả lời của họ, khi chúng ta chỉ nghe thấy chúng như là động lực để nói nhiều hơn về chính mình. Cũng không có gì phải bàn cãi khi bản thân chúng ta không trả lời câu hỏi của người khác. Cần có luồng tư duy thông minh và phản ứng nhanh nhạy để làm cho ngôn ngữ trở nên sáng tạo. Thêm nữa, sự thiện chí thông giao cụ thể cho thấy việc kiểm soát đối với những gì con người cảm thấy bị thôi thúc phải bày tỏ, và sự linh hoạt trong cách trình bày ngắn gọn và xúc tích. Nếu cả hai hiện sinh tìm kiếm sự thiết yếu của thông giao, cuộc nói chuyện của họ sẽ có hiệu quả thực sự, cái này sẽ bổ túc sự rõ ràng của cái kia khi con người cùng tiếp thu nó.[80]

Tóm lại, Jaspers cho thấy một hiện sinh được gọi là hiện sinh trung thực khi hiện sinh ấy không bơ vơ lạc lõng một mình, nhưng là một hiện sinh có liên hệ với các hiện sinh khác. Một hiện sinh chỉ thực sự hiện hữu khi có sự gặp gỡ và thông giao với hiện sinh khác.

 

IV. Một vài nhận định

Sau khi tìm hiểu đề tài Thông giao dưới cái nhìn của Karl Jaspers, chúng ta đưa ra một vài nhận định. Sau đó, cùng suy tư việc thông giao trong đời sống cộng đoàn giúp gì cho chúng ta trên con đường tìm kiếm Chân Lý.

  1. Nhận định

Qua cách nhìn sâu sắc đầy cảm thông và luôn khao khát, cái nhìn về thông giao của Karl Jaspers như là nền tảng và lối giải thoát cho mọi tranh chấp, xung đột. Lời mời gọi nhìn nhận bản thân và tha nhân như nó là, luôn đánh thức những ai có một con tim và một lý trí của con người. Tất cả những suy tư trên ắt hẳn cũng diễn tả phần nào thao thức của một con người mang trong mình nỗi khát khao về một cuộc sống hòa bình, nơi con người biết xem trọng, đón nhận nhau. Có lẽ đây cũng là thao thức của một cuộc đời từng trải, một triết gia nặng gánh ưu tư.[81]

Nhấn mạnh vào tình trạng bị xé của hiện sinh,[82] bị xé giữa vật lý và tinh thần, cá nhân và sinh hoạt đoàn thể… Triết gia Jaspers ý thức cuộc đời như một vươn lên không ngừng, một vươn lên đầy khó khăn. Quan điểm thông giao của Jaspers là sự nỗ lực mang lại cho mỗi người một cuộc sống có nhân vị và phù hợp với sứ mệnh của mình, đồng thời gợi mở cho xã hội loài người một cách sống ôn hòa, hợp với đạo làm người. Theo triết gia này, con người ngày nay vẫn chưa vươn tới mức sống cảm thông chân thành với tha nhân trong niềm thông giao của hiện sinh. Vì hiện sinh trọn hảo không phải là hiện sinh đóng kín, nhưng biết mở sang nhau qua hoạt động của thông giao. Chỉ trong thông giao, tự ngã mới sống cho mình trong sáng tạo hỗ tương. Như vậy, mất thông giao đồng nghĩa với đánh mất sự hiện hữu. Mặt khác, thông giao không thêm vào hiện hữu riêng tôi, mà là một chiều hướng bên trong, là cơ cấu của hiện hữu. Thông giao theo cách liên chủ thể là đồng hiện hữu. Từ đó, mỗi hiện sinh khám phá nơi mình có trách nhiệm và bổn phận với tha nhân, cũng như chỉ qua tha nhân, hiện sinh biết mình phải sống thế nào. Vì vậy, con người càng ra khỏi chính mình, thì càng gặp được chính mình và ở mức độ hoàn hảo hơn. Từ lúc thông giao chúng ta nhảy từ trạng thái này sang trạng thái khác, chính ở đó chúng ta vươn đến nơi mà siêu việt mang bộ mặt tình yêu.

Trong thông giao, Jaspers nói đến cuộc đấu tranh yêu thương, tôi và tha nhân yêu mến tôn trọng sự độc đáo của từng nhân vị. Chỉ có thông giao đích thực khi cả hai nhân vị cùng đứng trên bình diện hiện sinh, nghĩa là hiện sinh cởi mở tận cùng, loại bỏ hết mọi thứ quyền lực và ưu thế, xem cuộc hiện sinh của người khác như của chính mình, tự tha nhân sẽ tỏ cho mình biết về họ. Do vậy mỗi hiện sinh cần mở ra và đi vào thông giao với tha nhân, như thế mới có cái nhìn đúng đắn về tha nhân. Đấu tranh làm cho thông giao trong sáng, tinh tuyền, có sức lôi cuốn mọi người. Cùng với tha nhân, chúng ta chiến đấu chống lại tính vị kỷ, định kiến, cũng như nỗ lực “mở ra” để nắm bắt cái vô hạn nơi tha nhân, qua đó ngày càng gia tăng việc chia sẻ, tìm hiểu nhu cầu và ước vọng của nhau. Do đó, tư tưởng của triết gia này cho thấy sự hài hòa giữa người với người, vừa tôn trọng vừa yêu thương nhau. Thật vậy, tình yêu chính là mối dây liên kết tuyệt hảo và là giá trị cao cả của mối thông giao. Thánh Phaolô đã khẳng định và chỉ cho giáo đoàn Côrintô thấy đức mến là con đường trổi vượt hơn cả (x. 1Cr 13). Vì thế, yêu thương tha nhân không chỉ là sự thể hiện của mối thông giao con người với nhau, mà còn là dấu hiệu để nhận biết người môn đệ Chúa Giêsu (x. Ga 13, 35). Thêm nữa, đó cũng là điều răn đi kèm với điều răn trọng nhất là “mến Chúa”. “Mến Chúa và yêu người” đó là hai mặt của một tình yêu được thánh Gioan triển khai như sau: “Nếu ai nói: ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4, 20).

Đàng khác, dường như Jaspers chỉ chú trọng đến việc mô tả mối thông giao của con người với nhau hơn là xây dựng và sống mối thông giao đó. Quan điểm thông giao của Jaspers thiếu tính cách dấn thân, thiếu niềm trung tín. Bởi lẽ, khi thông giao bế tắc, chúng ta cần tha thứ cho nhau. Chính sự tha thứ làm cho mối thông giao được duy trì. Bên cạnh đó, theo Jaspers, mối thông giao này rất gay go, đòi hỏi cả hai hiện sinh cố gắng. Con người có những giới hạn, bất toàn và yếu đuối, thông giao là cơ hội để bổ túc cho những thiếu sót, nhưng sự gần gũi với tất cả hiện sinh không phải dễ dàng đạt được. Nên nhiều lúc con người thấy sự bất lực trong việc giải quyết mâu thuẫn, ngay cả khi hiện sinh nỗ lực thì tất cả những cố gắng chỉ mang nghĩa hình thức, xã giao, thông giao diễn ra trong tình trạng đấu tranh lý trí. Không ai tự là kiến trúc sư cho chương trình hoàn thiện chính mình, sự hoàn thiện mình phải được thực hiện qua người khác. Dù không phải là hữu thể tuyệt đối, nhưng chúng ta có phẩm giá vì có giá trị tuyệt đối, giá trị này đến từ Đấng tuyệt đối.[83] Thế nên, tư tưởng thông giao của Jaspers trở thành lý tưởng đẹp nhưng cũng khó thực hiện.

Tóm lại, qua tư tưởng của Karl Jaspers, chúng ta cần nhìn lại chính mình về thái độ sống với mọi người. Đôi khi chúng ta đang sống hình thức giả tạo và vụ lợi, do vô tình hay cố ý mà đánh mất cái thực phải có nơi con người. Dẫu sao sự thật vẫn là sự thật, sự giả tạo làm méo mó không những tính cách quan hệ với nhau mà còn đánh mất tính thiện căn trong tâm hồn, làm cho thế giới quan của chúng ta bị thiên lệch. Thông giao theo Karl Jaspers là một cuộc hành trình luôn có ta và tha nhân song hành, hành trình này gọi là hành trình tình yêu. Con người dùng tình thương bác ái, kết nối tha nhân lại với nhau, thông cảm và giúp đỡ nhau, làm cho cuộc sống không còn vô nghĩa. Sau hết, yêu thương giải quyết được mọi vấn đề của con người và xã hội, tìm cho con người một lẽ sống, làm cho cuộc đời này có ý nghĩa và đầy hạnh phúc, vì “tình yêu là sức thu hút, kết hợp những điều khác nhau.”

  1. Thông giao trong đời sống cộng đoàn

Con người là chủ thể, một cái tôi độc đáo nhưng cũng là một nhân vị có tương quan. Thật vậy, mỗi người đều có nhu cầu tự khẳng định mình: tôi là tôi, không phải là dự phóng của một ai khác. Bởi, con người có lý trí và tình yêu, sống như một cái tôi độc đáo, cá biệt, duy nhất. Khi tự quyết về đời mình, tôi là tôi, chấp nhận mình và sống chính danh. Mặt khác, chúng ta cần đến người khác, hướng về người khác và trở thành chính mình trong thông giao. Con người là mình trong thông giao, trên phương diện hiệp thông. Thông giao hiệp thông giúp chúng ta khám phá khát vọng bên trong và đi vào tương quan thân mật, dấn thân cho tha nhân những phẩm chất, nét đẹp của mình. Khi suy tư về đời sống cộng đoàn, linh mục Nguyễn Nam Phong, Dòng Chúa Cứu Thế, cho rằng cộng đoàn là môi sinh mà trong đó chúng ta hoàn thành đời sống của mình, là nơi làm cho nhân vị triển nở. Nó nhào nặn và làm nên chúng ta cách nào đó.[84] Thế nên, tình người luôn là điểm đến của thông giao, như ai đó đã nói: “Nếu khôn ngoan giết chết lòng nhân ái, thì tôi xin được khờ dại suốt đời.”

Hơn thế nữa, cộng đoàn không là tập hợp nhiều người như những cá thể riêng biệt, nhưng là hiệp thông các ngôi vị trong cùng một dự phóng Tin Mừng. Sự hiệp thông trong ngôi vị muốn nói đến tình thân ái, sự liên đới bền chặt như thể tuy là nhiều người nhưng họ trở thành một lòng một ý. Sự hiệp thông không phải là “cào bằng”, không phải ai cũng giống ai, một kiểu giống nhau đơn điệu như các sản phẩm được sản xuất. Tuy mỗi người là một ngôi vị độc lập, một cá thể riêng biệt với những điểm đặc trưng riêng và bất khả thay thế, nhưng không phải vì thế mà sống như một hòn đảo. Tính cá thể đi vào trong tính tập thể, nhưng không bị biến mất hay hoà tan. Tính tập thể không làm phương hại đến tính cá vị, nhưng còn làm cho nó thêm đặc nét hơn. Như vậy, bản chất của cộng đoàn chính là sự thông giao hiệp thông.[85] Theo Luther King (1929 - 1968), mục sư người Mỹ, nhìn nhận cuộc sống của một con người đúng nghĩa không chỉ là thời gian sống nơi dương gian, cũng như đời sống của người đó với những giá trị tinh thần, nhưng còn là cuộc sống của cá nhân đó với tha nhân.[86] Cộng đoàn khác với một tập thể đơn thuần. Trong một tập thể đơn thuần, con người gặp nhau nhưng không ở lại với nhau. Cộng đoàn cũng khác một nhóm vốn là cái quy tụ theo ý muốn và năng lực để thực hiện một công việc chung nào đó. Nếu mục đích thành lập không còn, nhóm cũng không tồn tại. Cộng đoàn cũng không phải là một tổ chức tối tân khoa học để cùng nhau nghiên cứu phương tiện truyền thông.[87] Trong khi đó, cộng đoàn là một hoà hợp các ngôi vị. Các mối thông giao hình thành trong cộng đoàn không theo một mục đích ngoại tại, nhưng hướng đến ngôi vị như một giá trị căn bản. Nghĩa là trong cộng đoàn ngoài việc tìm kiếm sự hoàn thiện cá nhân, sâu xa hơn là sự thông phần giữa các ngôi vị để cùng tìm kiếm một Chân Lý vĩnh cửu.[88] Có thể nói, cộng đoàn không phải là một tháp Babel, nơi người ta chỉ nói một ngôn ngữ nhưng là Lễ Ngũ Tuần, nơi Thánh Thần diễn tả sự phong phú của Thiên Chúa, giúp người ta có nhiều tiếng nói mà vẫn hiểu được nhau. Vì thế, thiếu sự hiệp thông, cộng đoàn không còn là một cộng đoàn tu đúng nghĩa.[89]

Thật vậy, sống trong cộng đoàn qua thông giao, chúng ta khám phá ra các thành viên sống chan hòa trong tình huynh đệ, cha con … đó là nơi thuộc về, nơi cởi mở, hiệp thông và hợp tác, chữa trị và tiến triển, tha thứ, chốn yêu thương, nơi của sự nhẫn nại và tin tưởng nhau, thể hiện chính mình, nơi được Chúa gọi đúng như thực trạng của mình, chia sẻ và lễ hội. Cộng đoàn là một thân thể sống động gồm các phần khác nhau. Toàn thể cộng đoàn là một thân thể và các thành viên thuộc về nhau. Cảm thức thuộc về này, không đến từ máu huyết nhưng từ ơn gọi của Thiên Chúa, từ sự dấn thân cho một lý tưởng chung. Qua đó, cần vượt thắng thứ tình nghĩa chỉ dựa trên cảm xúc, luôn là mối nguy đe dọa đời sống cộng đoàn. Tình huynh đệ được xây dựng trên lòng mến và sự tin tưởng qua những cuộc thông giao.[90] Mỗi người được kêu gọi một cách cá biệt để sống chung với nhau, thuộc về chính cộng đoàn, chính thân thể này. Ơn gọi này là nền tảng cho việc quyết định dấn thân cho nhau, vì nhau và có trách nhiệm, không phải theo kiểu “sống chết mặc bay” hay “hồn ai nấy lo”, cũng không phải theo cách tổ hợp con người đến rồi lại đi theo sự mách bảo của con tim hơn là một sự lựa chọn có ý thức và tự do.[91] Bởi lẽ, trong cộng đoàn, mỗi người đóng một vai trò nhưng có liên hệ với nhau, cần đến nhau, và bổ túc cho nhau. Chúng ta sống tính chất cộng sinh, vì là hữu thể mang tính xã hội, cần đến người khác để hiện hữu với, thay đổi mình trong sự thông giao, mở ra và sống cho người khác.[92] Như thánh Phaolô diễn tả: 

“Thiên Chúa đã đặt mỗi bộ phận vào một chỗ trong thân thể như ý Người muốn… Thiên Chúa đã khéo xếp đặt các bộ phận trong thân thể, để bộ phận nào kém thì được tôn trọng nhiều hơn. Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau, nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung” (1Cr 12, 18. 24b - 26).

Trong thân thể này, mỗi người đều có ơn huệ khác nhau để thực thi, tuỳ theo ơn sủng Chúa ban cho mỗi người:

“Được ơn làm ngôn sứ thì phải nói sao cho phù hợp với đức tin. Được ơn phục vụ thì phải phục vụ. Ai dạy bảo, thì cứ dạy bảo. Ai khuyên răn, thì cứ khuyên răn. Ai phân phát, thì phải chân thành. Ai chủ toạ, thì phải có nhiệt tâm. Ai làm việc bác ái thì hãy vui vẻ” (Rm 12, 6 - 8).

Do đó, cộng đoàn là nơi mỗi người đang vươn lên từ bóng tối của vị kỷ đến ánh sáng của tình thương đích thực. Tình thương đây không phải thuần tình cảm hay cảm xúc hời hợt mà đó là nhận ra giao ước. Đó là lắng nghe tha nhân, quan tâm và thông giao hiệp thông sâu xa với họ. Đồng thời cảm thông, chịu đau khổ với tha nhân, khóc khi họ khóc, vui khi họ vui. Cho nên, cộng đoàn chỉ thực sự là một thân thể khi phần lớn các thành viên đang vượt qua từ “cộng đoàn cho tôi” đến “tôi cho cộng đoàn”, nghĩa là con tim của từng người đang mở ra cho mỗi thành viên không loại trừ một ai. Một cuộc vượt qua từ vị kỷ đến yêu thương, từ cái chết đến phục sinh. Hơn nữa, chúng ta không bước vào trong cộng đoàn như một công trình hữu hạn, nhưng như một thực tại phong phú với nhiều khả thể và tiềm năng. Chúng ta không sinh ra là đã hoàn thiện, nhưng nó như một “dự phóng mở rộng”, và nhiệm vụ của chúng ta là định nghĩa chính dự phóng của mình và thực hiện nó. Trong cộng đoàn, chúng ta không thể sống cách hoàn toàn cô độc, tự đủ.[93] Vậy nên, cần thông giao với tất cả mọi người, không phân biệt. Vì là một dự phóng của nhân loại đang trên hành trình tìm kiếm Chân Lý nên trong cộng đoàn chúng ta được quan tâm, chăm sóc và đón nhận với tình yêu.[94] Đối với các môn đệ Chúa Giêsu, điểm nghịch lý là họ sống và hiến ban mạng sống nếu họ chấp nhận chết: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24).

Tuy nhiên, giống như bất cứ một tổ chức xã hội nào, cộng đoàn cũng có những căn bệnh trầm kha.[95] Khi nói về những giá trị tích cực: cộng đoàn là nơi thuộc về, cởi mở, thông giao và hợp tác, tha thứ, chốn yêu thương, nơi tiến triển và giải thoát… Nhưng còn tồn đọng điều này: mỗi người tự đáy lòng biết chấp nhận nỗi đơn độc và quạnh hiu. Thật vậy, trong trái tim mỗi người đều có vết thương lòng, đó là nỗi đơn độc được hiện rõ vào lúc thất bại (trong công việc, học hành, tương quan với tha nhân có những va chạm, hiểu lầm…) Đời sống cộng đoàn giúp tôi không chạy trốn nỗi đơn độc nhưng ở lại trong yêu thương và tin rằng các ảo tưởng, tính vị kỷ sẽ được chữa lành bằng cách biến mình thành bánh cho tha nhân. Cộng đoàn là một “mảnh đất”, nơi cho tâm hồn đâm rễ, là “nhà mình”. Việc đâm rễ này không phải đóng kín mình lại, nhưng để mỗi người lớn mạnh lên và trổ sinh hoa trái. Đồng thời, khám phá ra giao ước giữa những người được mời gọi sống cho nhau qua thông giao. Mặt khác, có thể nói xét nét và kết án người khác là yếu tính của đời sống cộng đoàn. Có vẻ như không có việc xét nét và kết án nhau thì không còn là cộng đoàn. Chúng ta thường hay đóng kín người khác trong thiên kiến của mình: “người này thế kia, người kia thế nọ”. Chính cái thiên kiến đó làm cho người khác không thể lớn lên trong con mắt của mình. Lẽ đó, Jean Vanier (1928 - 2019) người Thụy Sĩ, sáng lập cộng đoàn “L’Arche” - “Con Tàu” cho rằng: “khi làm thế, chúng ta từ chối khả năng lớn lên của họ. Chúa Giêsu bảo chúng ta đừng xét đoán và kết án ai. Đó là tội của đời sống cộng đoàn. Khi chúng ta xét đoán, chúng ta đẩy người khác và dựng lên một bức tường, một rào cản. Khi chúng ta tha thứ, chúng ta hạ rào cản đi và tiến đến gần người khác.”[96] Như thế, dẫu khó khăn trong đời sống cộng đoàn, chúng ta vẫn cảm nghiệm được sự ngọt ngào, êm ái qua việc các thành viên dấn thân cho nhau và đón nhận nhau. Cảm nghiệm được điều đó, Thánh vịnh đã nói: “Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay! Anh em được sống vui vầy bên nhau…” (Tv 132, 1). Vì vậy, hiểu được ý nghĩa và sự cao quý của đời sống cộng đoàn, chúng ta thấy hình phạt đau đớn, khủng khiếp nhất đối với một người sống đời cộng đoàn mà bị bỏ rơi, đơn độc, không được thông giao, thậm chí bị khai trừ ngay chính cộng đoàn.

Như vậy, tự bản chất con người là một ngôi vị độc đáo, hướng tới người khác và luôn tồn tại niềm khát khao nhận biết điều thiết yếu về bản thân. Chúng ta muốn giải thích rõ ràng ý nghĩa của cuộc đời dựa trên những gì đã cảm nhận được qua thực tế và trong nội tâm sâu thẳm, thì thông giao luôn có vai trò định hướng cho việc suy tư về tha nhân, nhận biết về chính mình.[97] Thế nên, cộng đoàn đích thực sẽ không làm mất tính cách độc đáo của mỗi cá nhân. Nhưng mỗi cá nhân hoàn thành nhân cách độc đáo của mình trong thông giao yêu thương với người khác.

KẾT LUẬN

Con người là một hữu thể được tạo dựng trong mối dây liên kết với người khác. Thế nên, thông giao là nền tảng của mọi giá trị, sinh hoạt, việc làm và thành quả của con người. Tất cả giá trị của đời sống được đo bằng tình yêu. Tình yêu, tự bản chất là trao ban, cho đi, thông giao với ai đó. Cho nên, tình yêu chính là thông giao. Trong thông giao, cần vượt thắng tính phòng vệ bản thân, qua đó chúng ta có thể hiện diện chân thật với tha nhân. Mối thông giao đích thực giữa người với người là thông giao bạn hữu, biết cảm thông, yêu mến, tôn trọng sự khác biệt và tự do, hơn là thái độ chiếm hữu, loại trừ, sống với nhau như anh em là đích điểm của tương quan. Như thế mới xây dựng một thế giới hòa bình hạnh phúc, bình đẳng và tôn trọng phẩm giá của nhau.

Con người hình thành đời mình theo dòng thời gian, nhưng không có nghĩa mức độ hình thành lệ thuộc vào thành quả đạt được, mà vào bề dày nghĩa tình trong thông giao. Con người được đặt trong thế động, nghĩa là đưa vào cuộc hiện sinh để hình thành trong cuộc đời những thông giao căn bản được ghi khắc trong tâm hồn. Thật ra, thông giao với tha nhân không phải là cái gì thêm vào, nhưng nói lên hiện sinh có sức trào vọt như một nguồn suối, luôn muốn hoàn thành chính mình để trở thành một hiện sinh tự lập, sống đích thực là mình.[98] Với triết gia Jaspers, qua thông giao, con người có thể giải quyết những xung đột, sống trong hòa bình, yêu thương và phát triển. Hơn nữa, trong cuộc thông giao không thể nhờ “môi giới” của tri thức, cũng không do tín ngưỡng. Chân lý của cuộc thông giao là những chân lý riêng tư độc nhất.[99] Bởi nếu thông giao bị lệ thuộc lý trí hay tình cảm, thì chưa phải là thông giao, nhưng phải bằng hiện sinh với hiện sinh.[100] Nói cách khác, trong thông giao, con người trao ban tình thương, dấn thân vì yêu thương. Trong yêu thương mỗi hiện sinh tự thấy mình hưởng hạnh phúc trong động tác tạo thành hạnh phúc cho người mình yêu. Do đó, yêu tức là khẳng định tự lập tính của bản ngã trong sự trao đổi thông giao. Muốn yêu và được yêu, không thể thụ động mà phải đấu tranh. Thông giao của yêu thương là kết quả của cuộc đấu tranh yêu thương.[101] Đối với tha nhân, sự thông giao được chứng nhận trong sự trùng phùng của tư tưởng hay tình cảm. Người ta như gặp nhau trong một chỗ hẹn hò lý trí hay tâm hồn. Sự đồng quan điểm ấy giúp giải thích khả tri tính của mọi kiến thức nhân loại, cũng như mọi thái độ sống của con người trong xã hội.[102]

Hơn nữa, nội dung trong thông giao không mang tính cá nhân, nhưng cho phép hiện sinh chạm vàomở khóa hiện sinh khác.[103] Nghĩa là thông giao đối với hiện sinh như một cuộc đấu tranh cho chính mình, một cuộc đấu tranh trong mọi trạng huống. “Tôi luôn luôn là tôi trong mọi cảnh ngộ, tôi chỉ là tôi trong cuộc đấu tranh làm nên cuộc đời tôi. Hiện sinh chỉ có thể vượt qua những giới hạn của hoàn cảnh bằng cách đi sâu vào nó, bằng sự đảm nhận, ủng hộ nó để hoàn thành vận mạng của mình.”[104] Ngoài ra, thông giao không chỉ là cách hữu hạn kể mọi thứ cho nhau nghe mà còn là sự thể hiện mối quan hệ tồn tại của hai hiện sinh,[105] và có thể, như cuộc đối thoại được khách quan hóa trong một cuộc thông giao đang truyền tải những triết lý.[106] Như vậy, theo triết gia Jaspers, điều quan trọng không phải là kiến thức khoa học mà chính là kiến thức phê bình, tức là ý kiến về khoa học. Triết lý không bao giờ là khoa học, không bao giờ có một triết lý giải thích tất cả mọi sự một lần là xong. Triết lý cần tới khoa học, nhưng triết lý đạt tới điều khoa học không thể đạt tới. Đó là đạt tới chính mình, ảnh hưởng trên hoạt động của nội tâm, giải tỏa trong chúng ta những nguồn mạch, những nguồn mạch này làm cho khoa học có ý nghĩa.[107]

Triết gia Jaspers đi sâu vào đời sống ngã vị cách cụ thể. Một cuộc sống mà trong đó hiện sinh thích nghi, uyển chuyển, phong phú. Một cuộc đột phá sáng tạo trên đức ái hoàn hảo tích cực dấn thân vào cuộc đời, dù gặp những thất bại hay giới hạn của định mệnh. Đó cũng là khía cạnh chính yếu của hiện hữu con người. Hơn nữa, triết gia này đi vào nỗi ưu tư trong kiếp sống con người, vì biết rằng tương lai đầy huyền nhiệm, còn bao nhiêu yếu tố chưa hiện ra rõ rệt, và mình sẽ tự đưa ra quyết định,[108] một nỗi ưu tư của nền triết học hiện đại, đặc biệt là triết học của phái hữu thần. Thế nên, chúng ta có thể coi tư tưởng của vị triết gia này là triết lý về đời sống, vì nó là suy tưởng sâu xa về cuộc đời, cũng như nỗi băn khoăn một kiếp sống sao cho có ý nghĩa. Không chỉ triết lý suông và bàn luận về vấn đề trừu tượng xa xôi, nhưng triết gia này đem con người về với cuộc đời và bản thân mình. Vì vậy, tư tưởng của vị triết gia này có ảnh hưởng sâu xa vào nền triết học hiện đại.[109] Mặt khác, đối với hiện sinh không phải sử dụng tinh thần khách quan của khoa học, mà cũng chẳng thể diễn tả bằng những khái niệm hoàn toàn tổng quát nhưng chỉ có thể cảm nghiệm, sống và thông giao.[110] Từ ý nghĩa sống thông giao, Jaspers vạch ra con đường hay phương pháp riêng cho triết học, đó là phương pháp “soi vào hiện sinh” hay “minh giải hiện sinh”. Với phương pháp này, người ta có thể hiểu dần dần những trạng thái của cuộc sống, là một cách thức dò thám, mô tả những kinh nghiệm riêng tư của từng cá nhân.[111] Ý nghĩa của hiện sinh đích thực nằm trong bản chất của chủ thể luôn hướng lên bằng khả năng thông giao. Qua thông giao, Jaspers làm nổi lên con đường hiện sinh trong triết học của mình. Một hiện sinh luôn khẳng định ý nghĩa đích thực, ý nghĩa chân chính. Qua vấn đề thông giao trong triết học hiện sinh của vị triết gia này đi đến một giai đoạn cao cả của miền Siêu Việt và cũng chính là cùng đích của hiện sinh.[112] Từ những khám phá đó, triết gia Jaspers đã xây dựng một lý thuyết gãy gọn và phong phú, mang đậm giá trị và tinh thần giáo dục. Vì thế, vị triết gia này được coi là nhà kiến trúc của triết học hiện sinh và là người đầu tiên dùng danh từ “Triết Học Hiện Sinh”.[113]

Đàng khác, thông giao là bản chất của hiện sinh, của một sự nhảy vọt đích thực, một cô đơn đích thực và một bản ngã đích thực.[114] Qua thông giao hiện sinh biểu lộ khát vọng vươn lên và nhận ra mình nơi hiện sinh khác. Khi nhận ra, hiện sinh quý mến và trân trọng những gì thuộc về mình, hiện sinh kiến tạo mối thông giao trong chính chiều kích nội tại của bản thân, qua đó hiện sinh sẽ hướng đến tha nhân. Mặt khác, điểm cốt yếu của mối thông giao nội tại này là hiện sinh tự yêu chính mình, nghĩa là đón nhận, quý trọng những gì là của mình, từ đó kết nối thông giao với hiện sinh khác. Tóm lại, thông giao đưa tới chân lý,[115] nhưng là chân lý mỗi cá nhân tuyệt đối thấy và sống cho mình. Theo nghĩa đó, chân lý khách quan phổ biến là giả tạo, ảo ảnh. Trái lại, chân lý hiện sinh của thông giao là chân lý mỗi người cùng cảm thấy nhưng bằng những cách riêng biệt.[116] Ngoài ra, triết gia Jaspers đi từ một quan niệm bản thể về thông giao đến những bình diện tâm lý và đạo đức của danh từ. Thật thế, triết gia này phân biệt giữa thông giao vững bền và thông giao phù du, giữa thông giao chính danh và thông giao suy đồi. Thông giao thuần túy vật chất, nhục dục, chỉ đưa đến hậu quả là ly khai, đổ vỡ. Sau hết, để dung hòa tất định và tự ý thức trong thông giao. Jaspers nhấn mạnh đến vai trò tình cờ của những động lực huyền bí, từ đời nào chung đúc lại, khiến phát sinh ra sự thông giao của tôi. Vì thế, mặc dù như tiền định, sự thông giao của chúng ta vẫn là một động tác của chúng ta, do chúng ta. Chúng ta chịu trách nhiệm trong sự vô trách nhiệm. Ý niệm tiền định hay ngẫu nhiên được đem vào để làm sáng tỏ hai ý niệm liên hệ: siêu việt và thất bại.[117]

Thật vậy, Công Đồng Vaticano II cũng đã minh định: “Thiên Chúa không dựng nên con người cách đơn độc, bởi từ khởi thuỷ “Ngài đã dựng nên con người có nam có nữ” (St 1, 2 - 7). Việc họ chung sống chính là dạng thức đầu tiên của tình liên đới nhân vị. Do vậy, tự bản tính thâm sâu, con người là một hữu thể có xã hội tính và không thông giao với tha nhân, con người không thể sống cũng như không thể phát triển các phẩm chất của mình.[118] Cuối cùng, thông giao còn được thể hiện trong lịch sử cứu độ: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Con Thiên Chúa làm người để ở với và thông giao với con người, như Thánh Gioan chép rằng: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1, 14). Nói cách khác, Ngài chính là “Đấng Emmanuel” được các Ngôn sứ loan báo, nghĩa là “Thiên Chúa ở cùng chúng ta!” 

 

 

 

 

 

 

 

THƯ MỤC THAM KHẢO

Văn kiện Giáo hội

Công Đồng Vatican II. Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes), Bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức tin - Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2012.

Kinh Thánh

Kinh Thánh, ấn bản 2011, Bản dịch và chú thích do nhóm Phiên dịch Các Giờ kinh Phụng vụ, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2011

Sách

L.m Nguyễn BÌNH, Nhân luận triết học, Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, Lưu hành nội bộ, 2022

Trần Thái ĐỈNH, Triết học hiện sinh, Tp. HCM, Nxb. Văn Học, 2005

Nguyễn Xuân HÙNG, Sống tương quan với Tha nhân theo Karl Jaspers và Gabriel Marcel, Học Viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2008

Karl JASPERS, Triết học nhập môn, Dịch giả Lê Tôn Nghiêm, Sài Gòn, Bộ Giáo dục và Thanh Niên - Trung tâm học liệu, 1969

Karl JASPERS, Philosophy, vol. II, translated by E. B. Ashton, Chicago, The University of Chicago Press, 1932

L.m Nguyễn Hoài LÂM, Giáo trình Hữu thể học, Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, Lưu hành nội bộ, 2021

L.m Gioan Nguyễn Nam PHONG, Đời Thánh hiến một đời tri ân, Tp. HCM, Nxb. Tôn Giáo, 2013

Nguyễn Văn TOÀN, Hiện sinh hướng lên Siêu Việt Thể trong Triết học Karl Jaspers, Học Viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2008

Lê Thành TRỊ, Hiện tượng luận về hiện sinh, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Trung tâm học liệu, 1974

Trần Thanh TÙNG, Nhân Sinh quan theo Karl Jaspers, Học Viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2005

Nguyễn Trọng VIỄN, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, Học viện Đa Minh, Lưu hành nội bộ, 1998

Vũ Mạnh XUÂN, Tìm hiểu quan niệm về Tự do của Karl Jaspers, Học Viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2007

 

 

 

[1] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, dịch giả Lê Tôn Nghiêm, Sài Gòn, Bộ Giáo dục và Thanh Niên - Trung tâm học liệu, 1969, XIX - XLIII 

[2] x. Vũ Mạnh Xuân, Tìm hiểu quan niệm về Tự do của Karl Jaspers, Học viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2007, tr. 4

[3] Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 128

[4] Ibid.

[5] Ibid., tr. 233

[6] x. Trần Thanh Tùng, Nhân sinh quan theo Karl Jaspers, Học viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2005, tr. 20

[7] x. Ibid., tr. 21

[8] x. Ibid.

[9] x. Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Văn Học, 2005, tr. 38 - 43

[10] x. Ibid., tr. 215

[11] Ibid.

[12] Ibid., tr. 216

[13] Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 32

[14] Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 218

[15] x. Ibid., tr. 217

[16] x. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, Sài Gòn, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Trung tâm học liệu, 1974, tr. 115 - 116

[17] x. Ibid., tr. 123

[18] Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 215

[19] Ibid., tr. 207

[20] Ibid.

[21] x. Ibid.

[22] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 32

[23] x. Ibid., tr. 49

[24] x. Nguyễn Văn Toàn, Hiện sinh hướng lên Siêu Việt Thể trong triết học Karl Jaspers, Học viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2008, tr. 6

[25] Ibid., tr. 207

[26] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 17

[27] x. Ibid., tr. 50

[28] x. Ibid., tr. 71

[29] x. Ibid., XXXVII

[30] x. Ibid., tr. 103

[31] x. Ibid., tr. 144

[32] x. Ibid., tr. 26

[33] Ibid., tr. 32

[34] x. Ibid., tr. 49

[35] x. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, op.cit., tr. 127

[36] x. Ibid.

[37] x. Ibid., 128.

[38] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, translated by E. B. Ashton, Chicago, The University of Chicago Press, 1932, tr. 56

[39] x. Ibid., tr. 71

[40] x. Ibid., tr. 56

[41] x. Ibid., tr. 64

[42] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 144

[43] Ibid.

[44] x. Ibid.

[45] x. Ibid., tr. 134 - 135

[46] x. Ibid., tr. 136

[47] x. Ibid.

[48] x. Ibid., tr. 137

[49] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., XXXVII

[50] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 59

[51] x. Ibid., tr. 60

[52] Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., XXXVII

[53] x. Ibid., tr. 19

[54] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 64

[55] x. Nguyễn Xuân Hùng, Sống tương quan với Tha nhân theo Karl Jaspers và Gabriel Marcel, Học Viện Châu Sơn, Lưu hành nội bộ, 2008, tr. 17

[56]  Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 100

[57] x. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, op.cit., tr. 125

[58] x. Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 217

[59] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 65

[60] x. Ibid., tr. 82

[61] x. Ibid.

[62] x. Ibid.

[63] x. Ibid., tr. 83.

[64] Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, Học viện Đa Minh, Lưu hành nội bộ, 1998, tr. 126 - 127

[65] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 83

[66] x. Ibid., tr. 84

[67] x. Ibid.

[68] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., XXXVII

[69] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 86

[70] x. Ibid.

[71] x. Ibid.

[72] x. Ibid., tr. 87

[73] x. Ibid.

[74] x. L.m Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể học, Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, Lưu hành nội bộ, 2021, tr. 150

[75] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 88

[76] x. Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 145

[77] x. Ibid.

[78] x. Ibid.

[79] x. Ibid., tr. 146

[80] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 88

[81] x. L.m Nguyễn Bình, Nhân luận triết học, Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, Lưu hành nội bộ, 2022, tr. 250

[82] x. Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 196

[83] x. L.m Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể học, op.cit., tr. 168

[84] x. L.m Gioan Nguyễn Nam Phong, Đời thánh hiến, một đời tri ân, Tp. Hồ Chí Minh, Nxb. Tôn Giáo, 2013, tr. 171

[85] x. Ibid., tr. 181

[86] Ibid.

[87] x. Ibid., tr. 180

[88] x. Ibid.

[89] x. Ibid., tr. 181

[90] x. Ibid., tr. 182

[91] x. Ibid.

[92] x. L.m Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể học, op.cit., tr. 161

[93] x. Ibid.

[94] x. Ibid., tr. 160

[95] L.m Gioan Nguyễn Nam Phong, Đời thánh hiến, một đời tri ân, op.cit., tr. 184

[96] x. Ibid.

[97] x. L.m Nguyễn Bình, Nhân luận triết học, op.cit., tr. 6

[98] x. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, op.cit., tr. 133

[99] x. Ibid., tr. 136

[100] Karl Jaspers, Triết học nhập môn, op.cit., tr. 40

[101] x. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, op.cit., tr. 125

[102] x. Ibid., tr. 123

[103] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 93

[104] x. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, op.cit., tr. 133

[105] x. Karl Jaspers, Philosophy, vol. II, op.cit., tr. 94

[106] x. Ibid., tr. 93

[107] x. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, op.cit., tr. 129

[108] x. Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 47

[109] x. Nguyễn Trọng Viễn, Lịch sử triết học Tây phương, Tập 4, op.cit., tr. 141

[110] x. Ibid., tr. 130

[111] Ibid.

[112] x. Ibid., tr. 136

[113] x. Ibid., tr. 130

[114] Trần Thái Đỉnh, Triết học hiện sinh, op.cit., tr. 213

[115] x. Ibid., tr. 94

[116] x. Lê Thành Trị, Hiện tượng luận về hiện sinh, op.cit., tr. 126

[117] x. Ibid.

[118] x. Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay (Gaudium et Spes), Bản dịch của Ủy ban Giáo lý Đức tin - Hội đồng Giám mục Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn Giáo, 2012, số 12