MỘT KHO TÀNG TRƯỜNG TỒN: ‘SACROSANCTUM CONCILIUM’ VÀ LỜI MỜI GỌI THỜ PHƯỢNG
Nhóm Sao Biển chuyển ngữ từ Oursundayvisitor.com (02/05/2022)
Vào ngày 25 tháng 1 năm 1959, Thánh Giáo hoàng Gioan XXIII đã công bố triệu tập một công đồng đại kết. Các hồng y và giám mục Giáo triều Rôma ngồi im lặng sửng sốt, bất ngờ trước tin này, vì Đức Gioan XXIII chỉ mới làm giáo hoàng được ba tháng. Ít vị nào trong giáo triều tưởng tượng rằng một công đồng đại kết sẽ được triệu tập nhanh đến như vậy, chưa đầy 100 năm sau Công đồng Vatican I (ngày 8/12/1869 – 20/10/1870). Hơn nữa, các giám chức không hiểu công đồng mới này sẽ làm được điều gì, đặc biệt là khi công đồng trước đã xác định quyền tối thượng của Đức Giáo hoàng trên toàn thể Giáo hội.
Các giám chức đã không yên lặng được lâu. Họ bắt đầu vạch ra những đường lối, ngay cả khi Đức Gioan XXIII đã nêu rõ ý định rằng Giáo hội nên thuận theo Thánh Thần để được đổi mới và đón nhận những điều tốt đẹp của thế giới.
Một nhóm [trong các giám chức] tiếp tục đặt nghi vấn về sự cần thiết một công đồng mới. Tuy nhiên, nếu Đức Giáo hoàng đã có ý định triệu tập công đồng, thì ngài nên ở thế phòng thủ chống lại các sai lạc đương thời. Nhóm còn lại – chia sẻ tinh thần lạc quan của Đức Gioan XXIII - muốn một Giáo hội mở ra với thế giới, loan báo Tin mừng. Những giáo sĩ này không làm ngơ trước các vấn nạn của thế giới, nhưng nhận thấy những nỗ lực tốt đẹp của dân chúng và các quốc gia cùng nhau khôi phục hòa bình và thúc đẩy công lý. Giống như Đức Giáo hoàng, các ngài muốn canh tân Giáo hội nơi những lãnh vực cần thiết, vượt khỏi các bức tường nhà thờ và tiếp nối sứ mệnh của Chúa Kitô, hầu làm sáng danh Thiên Chúa và cứu rỗi nhân loại.
Ngày nay, hai nhóm như vậy vẫn còn tiếp tục. Một số người nghĩ rằng Công đồng Vatican II (11/10/1962-08/12/1965) đã khởi đầu đoạn tuyệt với quá khứ của Giáo hội, và một số khác lại xem Công đồng như là tiếp nối cuộc canh tân cần thiết và trường kỳ của Giáo hội. Không ngạc nhiên gì khi các tài liệu Công đồng Vatican II cũng được nhìn từ những cách giải thích đối lập như vậy, kể cả văn kiện đầu tiên được ban hành vào ngày 04/12/1963: Hiến chế Phụng vụ thánh (Sacrosanctum Concilium - SC).
Bối cảnh
Hiến chế Sacrasanctum Concilium đã được đón nhận cách khác nhau, dù văn kiện này đóng góp sâu sắc đối với cách hiểu và thực hành phụng vụ. Những người chống đối, như Đức Tổng Giám mục Marcel Lefebvre và những người theo nhóm này cho rằng Hiến chế đã đưa vào phụng vụ những thay đổi bất hợp luật nên đã tách rời Giáo hội. Một số khác đã theo một thái cực ngược lại bằng cách thử nghiệm những đổi mới không được nhắc đến nơi Hiến chế SC, như sửa đổi bản văn của một nghi thức đã được phê chuẩn hoặc cho phép giáo dân thi hành vai trò dành cho giáo sĩ.
Tuy nhiên, phần lớn Giáo hội đều đón nhận Hiến chế SC như một giáo huấn chính thức của huấn quyền, điều này có nghĩa là mọi người cần cố gắng đọc và hiểu văn kiện này để thực hành theo các nguyên tắc và quy tắc của hiến chế trong việc cử hành phụng vụ - chẳng hạn như phụng tự công của Giáo hội (gồm Bí tích Thánh Thể, các bí tích và các hình thức cầu nguyện khác).
Nội dung
Với những lối giải thích đối lập về các cải cách của Công đồng Vatican II, mọi người nên đọc toàn bộ Hiến chế SC. Trong các nguyên tắc tổng quát, người ta sẽ tìm thấy hai nguyên tắc nền tảng cho những hướng dẫn và áp dụng các quy tắc của văn kiện này. Thứ nhất là vị trí trung tâm của Chúa Giêsu trong phụng vụ Giáo hội. Thứ hai là nhấn mạnh việc tham dự tích cực, ý thức và trọn vẹn của các tín hữu trong phụng vụ. Mọi quy tắc phụng vụ đều tuân theo hai nguyên tắc nền tảng này.
Hiến chế SC tuyên bố rằng: “Chúa Kitô luôn hiện diện trong Giáo hội, nhất là trong các hoạt động phụng vụ” (số 7), dẫn dắt Thân thể Người (các thành viên trong Giáo hội) để tôn vinh Chúa Cha, đây là mục đích chính của phụng vụ. Chúa Giêsu hiện diện nơi vị linh mục chủ tế Thánh lễ. Khi có ai cử hành bí tích Rửa tội, thì “chính là Chúa Kitô đang rửa tội” (số 7). Với sự hiện diện của Chúa Giêsu, thì “mọi cử hành phụng vụ … là công việc của Chúa Kitô và Thân Thể Người, là hành vi linh thánh trổi vượt hơn tất cả hành vi nào khác” (số 7) để tôn vinh Thiên Chúa [Chúa Cha].
Từ dòng suối phụng vụ - nhất là Bí tích Thánh Thể - các tín hữu nhận lãnh ân sủng và nhờ đó mà được thánh hóa, một mục tiêu cốt lõi khác của phụng vụ. (x. số 10). Để giúp giáo sĩ và giáo dân nhận lãnh ân sủng này, việc đào tạo đầy đủ là cần thiết để họ am hiểu và tham dự vào phụng vụ. Các phân khoa chủng viện phải ưu tiên việc đào tạo phụng vụ cho các ứng sinh linh mục (số 16). Các linh mục phải đào tạo các tín hữu về phụng vụ, đừng bao giờ chấp nhận “chỉ tuân thủ những quy luật để cử hành thành sự và hợp pháp” (số 11).
Nguyên tắc tổng quát thứ hai - tham dự trọn vẹn, ý thức và tích cực của mọi tín hữu - tiếp nối nguyên tắc thứ nhất. Nếu phụng vụ là hành động của Chúa Kitô toàn thể, là Đầu với các chi thể, thì các tín hữu đang hiện diện trong cử hành phụng vụ không thể là khán giả. Hiến chế nêu rõ việc tham dự của các tín hữu “là do chính bản chất của phụng vụ đòi hỏi” (số 14). Thực vậy, đó chính là “quyền lợi và bổn phận của đoàn dân Kitô giáo, nhờ phép rửa tội” (số 14).
Cả giáo sĩ và giáo dân đều có phận vụ riêng trong phụng vụ. Mọi người nên nỗ lực tham dự vào phụng vụ với thái độ sẵn sàng. Điều này bao gồm cả việc tham gia vào những câu đối đáp, thánh ca và cử chỉ chung, lắng nghe các bài đọc và bài giảng, giữ thinh lặng khi được mời gọi, chuẩn bị, và đón nhận Mình và Máu Chúa Kitô trong Thánh lễ.
Hiến chế SC giúp mọi thành phần của Giáo hội tham dự phụng vụ bằng cách thiết lập những quy tắc rõ ràng để mọi người hiểu và tham dự dễ dàng hơn. Các quy tắc này cũng đảm bảo rằng “đoàn dân Kitô giáo đón nhận được ân sủng dồi dào trong Phụng vụ thánh cách chắc chắn hơn” (số 21).
Văn kiện này kêu gọi một “nét đơn sơ cao quý” trong việc tu chỉnh các nghi thức phụng vụ: lời đọc và nghi thức phải tương ứng, tránh những trùng lắp vô ích. Các nghi lễ nên có nhiều bài đọc Thánh Kinh dồi dào hơn. Nhờ quy tắc này mà hiện nay chu kỳ bài đọc ba năm trong Thánh Lễ Chúa nhật và hai năm trong Thánh lễ hằng ngày đã mở rộng đáng kể bài đọc trong Thánh lễ. Một quy tắc khác từ Hiến chế (SC) và trở thành hiển nhiên như hiện nay, đó là việc sử dụng ngôn ngữ bản địa hay tiếng mẹ đẻ của dân chúng. Mặc dù “việc dùng tiếng Latinh phải được duy trì” (số 36.1), nhưng ngôn ngữ bản địa có thể được sử dụng với sự chuẩn y của Tòa Thánh, chỉ khi và ở nơi mà điều này đem lại ích lợi cho dân chúng khi cử hành các nghi thức.
Những quy tắc khác cũng được SC ấn định mà có thể chưa quen thuộc với độc giả, bao gồm việc phục hồi chương trình giáo lý dự tòng cho người trưởng thành, hay còn gọi là Nghi thức Khai tâm Kitô giáo cho người trưởng thành (Rite of Christian Initation for Aduts- RCIA), cũng như khuyến khích Dân Chúa đọc Kinh Thần Vụ (hay còn gọi là Phụng vụ Các Giờ Kinh). Về Kinh Thần vụ, Kinh chiều Chúa nhật được khuyến nghị trở thành một phần chính thức trong chương trình phụng vụ của các giáo xứ.
Lời kêu gọi
Một số nguyên tắc tổng quát và quy tắc mà Hiến chế SC kêu gọi có thể đã hiển nhiên đối với Giáo hội. Giáo hội muốn dạy rằng phụng vụ - nhất là bí tích Thánh thể - là nguồn mạch và là chóp đỉnh của mọi hoạt động Giáo hội. Là nguồn mạch, vì Giáo hội nhận lãnh mọi quyền năng từ Chúa Kitô, tác nhân chính trong phụng vụ; Ngài là “Đấng Trung Gian giữa Thiên Chúa và nhân loại” (số 5). Là chóp đỉnh, vì phụng vụ là nơi các chi thể kết hiệp với Đầu (x. số 10). Bởi thế, mọi thành phần của Giáo hội phải gặp gỡ Chúa Giêsu trong phụng vụ với tâm trí ý thức và tâm hồn rộng mở, sẵn sàng tuân theo ân sủng của Ngài. Khi dân Chúa nỗ lực cộng tác với Chúa Kitô, SC cho thấy kết quả:
“Hằng ngày, Phụng vụ kiến tạo những người bên trong Giáo hội thành đền thánh trong Chúa, thành nơi cư ngụ của Thiên Chúa trong Thánh Thần, cho đến khi đạt tới tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô, đồng thời cũng kiện cường cách kỳ diệu nơi họ sức mạnh để rao giảng Chúa Kitô, và như thế phụng vụ bày tỏ cho những người ở bên ngoài thấy Giáo hội như một dấu chỉ được đặt lên cao trước mặt muôn dân, nhờ đó con cái Thiên Chúa đang tản mác được quy tụ nên một cho tới khi thành một đàn chiên và một chủ chăn” (số 2).