×

Giỏ hàng

268   2025-02-18 12:27:13

HỘI NGHỊ ĐẠI KẾT RAVENNA VÀ QUYỀN TỐI THƯỢNG CỦA GIÁM MỤC RÔMA:

CÁCH THỨC CHỈ MÌNH GIÁM MỤC RÔMA KHẲNG ĐỊNH QUYỀN TỐI THƯỢNG PHỔ QUÁT TRONG GIÁO HỘI[1]

Msgr. Daniel S. Hamilton

Chủng sinh Giacôbê Nguyễn Tiến Lộc chuyển ngữ từ Homiletic & Pastoral Review

 

Sau hai thập kỷ với những tiến triển khiêm tốn, Ủy ban quốc tế chung về Đối thoại thần học giữa Giáo hội Công giáo và các Giáo hội Chính thống giáo Đông phương nhóm họp tại Ravenna, Italia, từ ngày 8 đến ngày 14 tháng 10 năm 2007, đã ban hành một tài liệu nghiên cứu về sự hiệp thông giáo hội, về công đồng tính và về quyền bính giáo hội[2]. Tài liệu này thừa nhận quyền tối thượng của Giám mục Rôma trong Giáo hội hoàn vũ là một thực tế lịch sử, nhưng yêu cầu nghiên cứu sâu rộng và làm rõ nền tảng và bản chất của quyền này, vốn là những vấn đề được tranh luận sôi nổi suốt nhiều thế kỷ.

Mục tiêu của bài viết này là phác thảo những quan điểm xung khắc nhau về nền tảng và bản chất của quyền tối thượng Rôma, được trình bày bởi các vị lãnh đạo và học giả chuyên môn của cả hai cộng đồng giáo hội Công giáo và Chính thống giáo, kể cả Anh giáo. Bài viết cũng gợi ra cách thức để thu hẹp khoảng cách giữa các lập trường đối lập này, sau đó đưa ra một suy tư cá nhân.

Quan điểm phía Công giáo

Một số người có thể ngạc nhiên khi biết rằng các vị lãnh đạo Giáo hội và các thần học gia phía Chính thống giáo, cùng với các Giáo hội Anh giáo Truyền thống[3] không bàn cãi về thực tế lịch sử của ưu quyền phổ quát Rôma từ những thế kỷ đầu của Kitô giáo; nhưng họ lập luận khác hẳn Giáo hội Công giáo về nền tảng và bản chất của ưu quyền này, trong vài trường hợp họ cho rằng ưu quyền này đã không còn nữa khi lạc giáo xuất hiện.

Giáo hội Công giáo ngay từ xa xưa đã nhấn mạnh, và thậm chí, đã xác định thành tín điều rằng chính Chúa Giêsu Kitô đã trao quyền lãnh đạo Giáo hội cho thánh Phêrô và đã muốn chức vụ này (cũng như chính Giáo hội) phải được tiếp tục cách trường tồn. Và dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần, chức vụ này được tiếp tục nơi quyền lãnh đạo hay quyền giám mục của Giáo hội tại Rôma, nơi chính Phêrô (cũng như Phaolô) đã lãnh đạo Giáo hội và đã tử đạo, cũng là thủ đô Đế quốc Rôma và là trung tâm truyền giáo quan trọng hàng đầu của Giáo hội.

Việc lãnh đạo này, khởi đi từ tông đồ trưởng Phêrô, đã được thực hành ngay từ đầu, sau đó được chính Giáo hội làm rõ và định tín trong tiến trình lịch sử, như một việc lãnh đạo với quyền bính đích thực và tối hậu, được viện dẫn khi cần thiết vì lợi ích, và trên hết, vì sự hợp nhất của tất cả các giáo hội. Thẩm quyền lãnh đạo này mang tính thiêng liêng, giáo thuyết, cai quản và dứt khoát trong mọi trường hợp. Giáo huấn của Công đồng Vatican I, được Công đồng Vatican II tái xác quyết, đã mô tả nhiệm vụ này là có tính giám mục, thông thường và trực tiếp. Tức là vị Giám mục Rôma có thẩm quyền trên toàn thể Giáo hội như một giám mục giáo phận có thẩm quyền trong giáo phận của mình, quyền này đi liền với chức vụ giám mục Rôma và có thể được thi hành cách độc lập (xét theo phương diện giáo luật) và cách cá nhân mà không cần nại đến bất kỳ quyền bính nào khác. Gắn liền với chức vụ Giám mục Rôma là đặc sủng giáo huấn bất khả ngộ trong những điều kiện đặc thù đã được Công đồng định rõ.

Do đó, giáo huấn Công giáo về quyền tối thượng của Giám mục Rôma là rõ ràng, chính xác, thẳng thắn và thậm chí đối với nhiều người là áp đặt[5]. Giáo huấn này được củng cố bởi một danh mục dài các chứng từ ủng hộ từ Kinh thánh, Giáo hội thời các tông đồ và hậu tông đồ, thời các giáo phụ và các thế kỷ tiếp theo[6].

Quan điểm phía Chính thống giáo và Anh giáo

Chính thống giáo và Anh giáo nói chung không có quan điểm tín điều về những vấn đề này; nhưng dù sao họ cũng có truyền thống từ lâu luôn kiên quyết bác bỏ quan điểm của Công giáo. Chính thống giáo và Anh giáo đánh giá về quyền tối thượng của Giám mục Rôma trong thực tế và lịch sử theo nhiều cách khác nhau:

1) Quyền tối thượng này không phù hợp với bản chất của Giáo hội là mối hiệp thông Thánh Thể của các giáo hội địa phương vốn đều là Giáo hội như nhau, trong đó mọi cấp độ quyền tối thượng chỉ được thực thi trong bối cảnh một công đồng;

2) Quyền tối thượng này cần thiết trong Giáo hội hoàn vũ và có thể do Chúa quan phòng thiết lập, nhưng thực tế đã được các Giáo hội địa phương từ xa xưa trao cho Toà Rôma cùng vị Giám mục Rôma, như chứng từ của các Công đồng đại kết hoặc các Công đồng khác như Nicêa (325), Sardica (342), Constantiople I (381) và Chalcedonia (451)[7].

Việc Rôma được xác định là có quyền tối thượng hoàn vũ được cho là bắt nguồn từ vị thế của thành phố này như trung tâm của thế giới lúc bấy giờ – tức Đế quốc Rôma – nơi Giáo hội được thiết lập và phát triển. Thành phố và Giáo hội Rôma còn có một di sản độc nhất, khi cả hai thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô đều đã thi hành sứ vụ và chịu tử đạo tại đây. Trong những thế kỷ tiếp theo, Rôma tự hào là một Giáo hội với quyền bính ngày càng lớn mạnh trong bối cảnh tôn giáo và chính trị của thời đại. Đồng thời, cũng có quan điểm cho rằng quyền bính này phát triển không chỉ do hoàn cảnh, mà còn do Giáo hội Rôma tự giành lấy vị thế lãnh đạo giữa các cộng đồng Giáo hội.

Những nhà phê bình này cho rằng quyền tối thượng chính đáng ban đầu của Rôma – hiểu theo nghĩa một quy chuẩn về đức tin và thực hành – đã tiến triển hoặc biến thành một thứ “chủ nghĩa Giáo hoàng” (papalism) hoặc “quyền tối cao của Giáo hoàng” (papal supremacy). Những thuật ngữ này, hàm ý một kiểu biến tướng hoặc phóng đại sai lầm sứ vụ nguyên thủy của thánh Phêrô, hoặc được các giáo hội chị em cổ xưa trao cho Tòa Rôma[8]. Theo quan điểm này, quyền tối thượng của Rôma đã trở thành một cơ cấu tối cao, mang tính quân chủ và độc đoán, tương tự như một quyền lực thế tục áp chế.

Do đó, mặc dù quyền tối thượng phổ quát có thể đã xuất hiện trong Giáo hội vì cần có sự lãnh đạo như vậy, nhưng loại quyền tối thượng đã phát triển khá nhanh trên thực tế, với nền tảng được khẳng định là lời tuyên bố không thể chứng minh về ân ban của Chúa dành cho thánh Phêrô, đã dần phát triển thành một quyền giáo hoàng tối cao gây tranh cãi, và dần trở thành cớ vấp phạm cho những Kitô hữu không chịu thừa nhận quyền này[9].

Một lối giải quyết?

Làm thế nào để dung hoà những quan điểm xung khắc này? Rõ ràng, con đường hoà giải sẽ không dễ dàng và cũng không phải là ngắn. Tuy nhiên, vào năm 1995, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II (trong thông điệp Ut Unum Sint)[10] đã mời gọi các nhà lãnh đạo giáo hội và các thần học gia của tất cả các cộng đồng giáo hội (dù ít được phản hồi) cùng ngài tham gia đối thoại về cách thức thực thi quyền tối thượng của Giám mục Rôma trong thời đại ngày nay, với điều kiện vẫn bảo toàn sứ vụ cốt yếu của quyền tối thượng. Dù vậy, cuộc đối thoại này không nhằm làm lu mờ nền tảng và bản chất của quyền tối thượng ấy.

Tất cả các bên trong cuộc đối thoại này cần cam kết xem xét kỹ lưỡng và khách quan các dữ liệu hiện có, bắt đầu với Kinh thánh và các chứng từ của Giáo hội tiên khởi và của các Giáo phụ, của các Công đồng quan trọng, cũng như chứng từ của mối liên hệ qua lại và giáo thuyết tín lý giữa các Giáo hội Đông phương với Tây phương suốt hai mươi thế kỷ qua, đồng thời phân biệt các cấp độ thẩm quyền khác nhau trong giáo huấn này[11]. Tiếp theo là việc chọn lọc và đánh giá các tài liệu. Các ủy ban chung, cũng như cá nhân các thần học gia sẽ thực thi các nhiệm vụ này một cách thích hợp.

Đúng là công việc này phần lớn đã được thực hiện từ trước. Tuy nhiên, ngày nay, các ủy ban nghiên cứu chung cần phải tái thẩm định, xác thực và, nếu cần, hiệu chỉnh những công trình trước đó, đồng thời tiến hành các nghiên cứu mới phù hợp với yêu cầu hiện nay. Các học giả, dù cùng theo đuổi tính khách quan, vẫn có thể đánh giá bằng chứng theo những cách khác nhau. Do đó, sự kỹ lưỡng và khách quan trong học thuật không loại bỏ hoàn toàn khác biệt, nhưng có thể thu hẹp chúng. Cuối cùng, trong một số trường hợp, kết luận khoa học cần được rút ra dựa trên bằng chứng chiếm ưu thế, đồng thời ghi nhận những cách diễn giải khả dĩ khác.

Nhưng chỉ nghiên cứu học thuật thôi – dù chuyên nghiệp và khách quan đến đâu – vẫn chưa đủ. Ngoài hoạt động nghiên cứu, cần phải cầu nguyện. Giáo hội không phải là một cộng đồng các học giả mà là Nhiệm thể Chúa Kitô, mà nhờ đức tin và phép rửa, chúng ta được tháp nhập vào Giáo hội để hoán cải tâm hồn, chữa lành ký ức và đó nhận ân sủng hoà giải. Chúng ta phải tăng cường đối thoại yêu thương và hợp tác hỗ tương, điều mà các Giáo hội đã tìm kiếm với ít nhiều thành công trong hơn 50 năm qua. Chúng ta phải tìm kiếm sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần và phải thành tâm mong muốn đạt đến sự hòa giải trọn vẹn[12].

Cách một người Công giáo nhìn nhận các vấn đề

Kinh thánh, lịch sử, nhiệm vụ giáo huấn của Giáo hội, lý trí và kinh nghiệm cho chúng ta biết Chúa Kitô muốn gì nơi Giáo hội của Ngài? Đối với người Công giáo, câu trả lời đã được Huấn quyền của Giáo hội, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, xác định cách dứt khoát. Nhưng ngay cả trong khuôn khổ của chân lý được giảng dạy cách chắc chắn này, vẫn có chỗ (như Đức Gioan Phaolô II nói trong thông điệp Ut Unum Sint) cho một cuộc đối thoại về cách thức mà quyền tối thượng Rôma có thể phục vụ Giáo hội hoàn vũ cách tốt nhất trong thời đại chúng ta. Phải chăng, ít là gián tiếp, Đức Gioan Phaolô II ngụ ý rằng mọi cách thực thi chức giáo hoàng trong quá khứ không phải [lúc nào cũng] thiết yếu và thoả mãn quyền tối thượng của giáo hoàng?

Những lời Chúa Giêsu nói với thánh Phêrô khi trao phó rồi xác nhận vai trò thủ lãnh đặc biệt của ông thật ấn tượng, gây kinh ngạc và thật không thể quên: phạm vi của quyền lãnh đạo này – cho phép ông có quyền “cầm buộc và tháo cởi bất cứ điều gì” – cũng đặc biệt không kém, nhất là khi nói với một mình Phêrô và gọi ông là “đá” (Mt 16,18). Liệu có thể nghĩ rằng Giáo hội, khi ngày càng phát triển và phân hóa trong khắp Đế quốc Rôma và xa hơn nữa, lại không cần một sự lãnh đạo quyết đoán như vậy? Lẽ nào không có Giám mục nào khác ngoài Giám mục Rôma đã từng tuyên bố mình có quyền tối thượng trên toàn Giáo hội? Liệu có thể tin rằng quyền tối thượng liên tục của Giám mục Rôma đã làm biến tướng ân ban nguyên thủy mà Đấng Cứu Thế dành cho Phêrô, khi chức vụ này đáp ứng sự phát triển của Giáo hội suốt hai ngàn năm? Mặc dù hai toà Antiokia và Alexandria ngay từ xưa, và toà Constantinople sau này, đều là những toà có ảnh hưởng rộng lớn, nhưng không toà nào từng tuyên bố về quyền tối thượng như vậy. Chỉ có toà Constantinople, trong thời hoàng kim của mình, đã tuyên bố giữ vị thế “sau Rôma.”

Những chứng từ của Giáo hội sơ khai (từ thế kỷ I đến thế kỷ thứ III), dù khá ít, nhưng tất cả đều ủng hộ quyền tối thượng Rôma như nó được thực thi vào thời đó. Không có bằng chứng nào phản bác điều này[13]. Khi Giáo hội lớn mạnh về số lượng và địa lý, quyền tối thượng cũng mở rộng theo chiều sâu và chiều rộng hoạt động, đáp ứng động lực vốn có từ ân ban nguyên thuỷ dành cho thánh Phêrô và nhu cầu cần có sự lãnh đạo quyết đoán trong toàn Giáo hội đại kết.

Cũng như các giáo thuyết chính yếu khác – như về Kitô học, Chúa Ba Ngôi, hay Bí tích Thánh Thể – Giáo hội cần thời gian làm sáng tỏ và xác định các phạm vi đức tin. Chúng ta không nên mong đợi điều gì khác biệt với lối hiểu và đánh giá đầy đủ hơn nền tảng và bản chất của quyền tối thượng Rôma, trong quá trình chuyển từ sự kiện Đức Giáo hoàng Clêmentê trách cứ Giáo hội Côrintô về vụ phế truất các trưởng lão (năm 96) đến hành động của các Giáo hoàng Gêlasiô, Đamasô và Lêô Cả trong Giáo hội đại kết, vào thời điểm mà các nghị phụ đã thốt lên rằng thánh Phêrô đang nói qua Đức Giáo hoàng Lêô, tại Công đồng Chalcedonia (năm 451).

Ngay từ rất sớm, trước khi bất kỳ “chế độ thượng phụ” nào hình thành (cuối thế kỷ V-VI), trước khi Constantinople trỗi dậy từ thành Byzantium nhỏ bé, được tung hô là “Rôma mới” và trở thành đối thủ của “Rôma cũ”, thì toà Rôma đã được hưởng quyền tối thượng độc nhất trong Giáo hội hoàn vũ mà không cần bàn cãi gì. Thẩm quyền này mang tính thiêng liêng, giáo thuyết, quản trị, quyết định và hầu như không bị chống đối. “Quyền tài phán phổ quát” xem ra đã phát xuất từ sự kiện Đức Giáo hoàng Clêmentê trách cứ Giáo hội Côrintô cho đến những lần can dự khác [của Giám mục Rôma] trong các thế kỷ tiếp theo. Chuyên gia lịch sử Giáo hội Công giáo-Anh giáo Anh Beresford Kidd đã kết luận trong cuốn The Roman Primacy to AD 461 [Quyền tối thượng Rôma cho tới năm 461] (tr. 153) rằng cách diễn đạt về quyền tối thượng của Giám mục Rôma đã phát triển đến đỉnh cao vào thời điểm Giáo hoàng Lêô Cả từ trần vào năm 461.

Dù có bất kỳ tuyên bố nào về các giám mục Rôma hay các thượng phụ sau “kỷ nguyên hòa bình Constantinô”, thì lời hứa dành cho thánh Phêrô và những đấng kế vị ngài cũng như việc thực thi đặc sủng này đã được ấn định từ lâu trong đời sống Giáo hội và đã được thừa nhận rộng rãi. Quyền tối thượng trên thực tế đó của Giám mục Rôma có thể không đưa đến việc tất cả mọi người đều minh nhiên chấp nhận ngay lập tức. Một số vẫn khẳng định rằng Rôma đã không có giám mục riêng cho đến khoảng năm 100, nhưng những chứng từ tích cực lại chiếm ưu thế. Nhìn chung, lịch sử chỉ ra một quyền tối thượng nhất định đã phát triển do được công nhận và do nhu cầu [cần sự lãnh đạo dứt khoát và phổ quát], chứ không phải một quyền tối thượng hư cấu dựa trên tham vọng.

Liệu có thể tin rằng các toà thượng phụ cổ xưa khác đã công nhận quyền tối thượng của toà Rôma? Phải chăng các toà Antiokia, Alexandria hay bất kỳ một toà cổ kính nào khác cũng từng tự tuyên bố một quyền tối thượng như vậy? Không có bằng chứng cổ xưa thuyết phục nào xác lập những quan điểm như vậy. Không, chỉ có Giám mục Rôma tuyên bố cũng như thực thi và được thừa nhận là có được quyền tối thượng. Và quyền tối thượng này đã được thực thi cho đến ngày nay. Hãy để công trình nghiên cứu làm sáng tỏ bằng chứng lịch sử. Sau đó, các cộng đồng giáo hội tham gia đối thoại có thể suy tư và thảo luận về cách thức mà quyền tối thượng thực tế này, cùng với nền tảng và bản chất như đã biết, có thể được thực thi tốt hơn trong thời đại chúng ta.

Chúng ta mong muốn các giáo hội Chính thống giáo tự trị xét xem liệu hiện tại họ đã có được hay có thể đạt được sự hợp nhất mà không cần quyền tối thượng Rôma – ngoài đức tin và đời sống bí tích – trong sự hoà thuận với nhau, sự phối hợp và quản trị hiệu quả, cũng như hành động thống nhất cho sứ mạng chắc chắn thuộc về sự hợp nhất trọn vẹn mà Chúa Kitô đã muốn cho Giáo hội của Ngài. Liệu quyền tối thượng Rôma, nhờ ơn Chúa Thánh Thần trong cách thực thi mới mẻ cho thời đại chúng ta, có mang lại sự tin tưởng, chữa lành, đức tin và nhiệt huyết truyền giáo mới, cũng như một đặc sủng trao quyền cho tất cả các giáo hội khắp mọi nơi không? Chúng ta tin rằng sẽ được như vậy.

----------------------

 

[1] Có nhiều cách dịch thuật ngữ “Roman Primacy” sang Tiếng Việt. Chẳng hạn, “quyền tối thượng” khi áp dụng thuật ngữ này cho vị Giám mục Rôma ; hoặc “địa vị ưu tiên” khi áp dụng cho toà Rôma. Bài này thống nhất cách dịch là “quyền tối thượng” cho cả chức giáo hoàng lẫn toà Rôma. (ND).

[2] “Ecclesiological and Canonical Consequences of the Sacramental Nature of the Church: Ecclesial Communion, Conciliarity and Authority,” https://www.christianunity.va/content/unitacristiani/en/dialoghi/sezione-orientale/chiese-ortodosse-di-tradizione-bizantina/commissione-mista-internazionale-per-il-dialogo-teologico-tra-la/documenti-di-dialogo/testo-in-inglese.html

[3] Giáo hội Anh giáo Truyền thống (Traditional Anglican Church - TAC) là một cộng đoàn tách biệt khỏi Cộng đồng Anh giáo nói chung và Tổng Giám mục Canterbury. Được thành lập năm 1991, TAC được lãnh đạo bởi một hội đồng giám mục và một vị giáo trưởng được bầu chọn. Lý do chính khiến các giáo hội thành viên TAC tách khỏi Cộng đồng Anh giáo nói chung là việc phong chức cho phụ nữ, cùng với các vấn đề như cải cách phụng vụ và quan điểm về tính tông truyền của Giáo hội. (ND).

[5] Giáo huấn dứt khoát của Giáo hội Công giáo về quyền tối thượng Rôma được tóm tắt trong Schmaus, Michael, Dogma 4: The Church: Its Origins and Structure, New York, Sheed and Ward, 1972, các chương 14-20.

[6] Các chứng từ ủng hộ lập luận về quyền tối thượng Rôma từ Đông phương đến Tây phương trong giai đoạn những năm 96-454, được tập hợp trong tài liệu Documents Illustrating Papal Authority, A.D. 96-454, biên soạn và giới thiệu bởi E. Giles, London, SPCK, 1952. Các chứng từ của các Giáo hội Đông phương cho đến năm 900 được trình bày trong cuốn The Eastern Churches and the Papacy, S. Herbert Scott, London, Sheed and Ward, 1928.

[7] Đại diện cho các lập luận Chính thống giáo về quyền tối thượng Rôma có thể xem trong cuốn The Primacy of Peter, của J. Meyendorff, A. Schmemann, N. Afanassieff, và N. Koulomzine, 2nd ed., London, Bedminster, The Faith Press and American Orthodox Book Service. Một nghiên cứu về các luận điểm do các thần học gia Chính thống giáo đương đại đưa ra có thể xem trong bài viết “Ravenna and Beyond: The Question of the Roman Papacy and the Orthodox Churches in the Literature 1962-2005,” của Adam A.J. DeVille trong One in Christ, Vol. 42, No.1, Summer 2008, pp.75-98.

Điều khoản 28 của Công đồng Chalcedonia (451), vốn được xem xét và thông qua chỉ bởi thiểu số các Giám mục (khoảng 184 vị so với đa số 600 vị) đến dự vào lúc Công đồng sắp bế mạc, được đề cập trong một án lệ bổ sung (obiter dictum) rằng: “Các Nghị phụ đã nhìn nhận quyền tối thượng của toà Rôma”. Mặc dù cách dịch động từ apodidomi (có nghĩa là “trao” hoặc “thừa nhận” như một điều vốn thuộc về) vẫn còn gây tranh cãi, và cũng không rõ là các Nghị phụ được nhắc đến là ai, vì trước đó Công đồng Nicêa (325) đã thừa nhận quyền tối thượng của toà Rôma như một thực tế đã có từ lâu. Đức Giáo hoàng Lêô (440-461) trong các lá thư của ngài thường nhắc thánh Phêrô và thánh Phaolô như những thượng phụ của Giáo hội Rôma. Và mặc dù đã được Công đồng, Hoàng đế và Tổng Giám mục Constantinople thỉnh cầu phê chuẩn điều khoản 28 [của Công đồng Chalcedonia], Đức Giáo hoàng Lêô I và tất cả các vị kế nhiệm đều từ chối, bởi vì quy định này – khi xác nhận Constnantinople được xếp thế thứ hai sau Toà Rôma và việc mở rộng quyền tài phán của toà này trên các tỉnh trong Đế quốc như Thames, Pontus và Tiểu Á – sẽ đi ngược lại các điều khoản của Công đồng Nicêa về các quyền của hai toà Alexandria và Antiokia.

[8] Các thuật ngữ papalism hoặc papal supremacy cho thấy những khuynh hướng lập luận rằng quyền tối thượng của Tòa Rôma và của vị Giám mục Rôma có thể được xem là xuất phát từ hai nguồn:

1/ chức vụ của Phêrô, người đã nhận quyền lãnh đạo ban đầu;

2/ sự công nhận của các giáo hội chị em cổ xưa, nghĩa là những giáo hội khác đã thừa nhận và trao quyền cho Tòa Rôma.

Ban đầu, quyền tối thượng của Tòa Rôma và của vị Giám mục toà này được hiểu là vai trò lãnh đạo nhằm duy trì sự hợp nhất và bảo vệ đức tin trong Giáo hội, xuất phát từ Phêrô. Tuy nhiên, qua thời gian, quyền lực của Giáo hoàng đã mở rộng và đôi khi bị hiểu là một quyền lực tuyệt đối và không thể tranh cãi, điều mà nhiều ý kiến cho là sự biến tướng của chức vụ ban đầu. (ND).

[9] Đại diện cho các lập luận Anh giáo có thể xem trong  Kidd, B.J., The Roman Primacy to A. D. 461, London, SPCK, 1936; Stone, Darwell, The Christian Church, London, Rivington, 1905; Moss, C.B., The Christian Faith, London, SPCK, 1963; and Hall, Francis J., Authority: Ecclesiastical and Biblical; New York, Longmans Green 1908 (re-published 1968, American Church Union). Một số giả định, đánh giá và kết luận của tiến sĩ Kidd bị chất vấn, thẩm định và phần nào bị bác bỏ bởi một đồng nghiệp Anh giáo khác, Dom Gregory Dix, trong cuốn Jurisdiction in the Early Church: Episcopal and Papal, London, The Church Literature Association, (1938) 1975. 

[10] Xem các đoạn văn kiện có liên quan trong bộ The Christian Faith in the Doctrinal Documents of the Catholic Church, ấn bản thứ 7 có bổ sung, Rev. J. Dupuis, New York, Alba House, 2001, 402-09.

[11] Khi xem xét giáo huấn của Giáo hội Công giáo về quyền tối thượng của Giám mục Rôma, cần phân biệt rõ các cấp độ thẩm quyền khác nhau. Không phải mọi tuyên bố trong lịch sử đều có cùng mức độ ràng buộc hay cùng cấp độ giáo lý. Một số thuộc phạm vi tín điều (dogma), một số là giáo huấn có thẩm quyền nhưng không bất biến (authoritative non-infallible teaching), và một số chỉ là quan điểm thần học hay lập trường mang tính lịch sử (theological opinions, historical positions). Việc phân định này giúp tránh nhầm lẫn giữa những yếu tố bất biến và những vấn đề có thể thảo luận trong đối thoại đại kết. (ND).

[12] Xem quan điểm tương tự của Adam A.J.DeVille, trong Ecumenical Trends, Vol. 37, No. 4, April 2008, 6/54-7/55.

[13] Giám mục Cyprianô thành Carthagô (+258) mạnh mẽ ủng hộ quyền tối thượng Rôma mặc dù đôi khi cũng phản đối các quyết định của Giáo hoàng mà ông không đồng thuận.