ĐỨC GIÊSU VÀ “SỨ VỤ NƯỚC TRỜI” (P2)
Joseph Tân Nguyễn, OFM
ĐỨC GIÊSU RAO GIẢNG “NƯỚC TRỜI”
Linh đạo cánh chung của Do Thái giáo là hậu cảnh cho sứ vụ rao giảng của Đức Giêsu và những gì các môn đệ Ngài hấp thụ. Qua trải nghiệm về Thập Giá và Phục Sinh, các cộng đoàn Kitô hữu diễn giải sâu rộng hơn về ý nghĩa sứ mạng Nước Trời của Đức Giêsu. Đức Giêsu nói tiếng Aram và Hípri, vốn là hai ngôn ngữ thông dụng ở Palestin, nhưng có lẽ Ngài không biết rõ tiếng La Tinh hay Hy Lạp. Ngài lên án sự lạm dụng trong Do Thái giáo, nhưng vẫn tuân thủ Lề Luật Do Thái theo tinh thần Nước Trời. Ngài rao giảng về sự gần kề của Nước Trời, nhưng các môn đệ sau biến cố Phục Sinh lại rao giảng về Đức Giêsu. Đức Giêsu không lập một giáo phái riêng; nhưng chỉ trong hai thập niên sau khi Ngài về trời, Kitô giáo không còn là tôn giáo cho người Do Thái mà là chung cho mọi người. Qua sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại của Phaolô, sự kiện Đấng Mêsia đến giải phóng dân Do Thái trở thành Đấng Thiên Sai giải thoát loài người khỏi sự chết, hậu quả của tội lỗi. Ơn cứu rỗi phổ quát này được Thiên Chúa ban cho bất cứ ai tin vào cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu, không phân biệt Do Thái hay dân ngoại, tự do hay nô lệ, nam hay nữ (Gl 3,28).
Ngoài Tân Ước, chúng ta chỉ có vài lá thư lẻ tẻ do các tín hữu trong thế kỷ I nhắc đến Đức Giêsu. Các bản Tin Mừng thường mâu thuẫn với nhau, đôi khi về điểm nhấn, đôi khi về chi tiết lịch sử, đôi khi về sứ mệnh của Đức Giêsu, nên khó biết bản Tin Mừng nào ghi lại lịch sử chính xác nhất. Thường thì các tài liệu sớm được cho là chính xác hơn các tài liệu xuất hiện sau, như Tin Mừng Máccô so với Tin Mừng Gioan. Các nguồn liệu tiền chính thống có thể cho biết thêm về hậu cảnh ý thức hệ đa dạng của Palestin ở thế kỷ I. Điều quan trọng là các bản Tin Mừng không có ý định tường thuật cách khách quan về các biến cố, mà để tuyên xưng đức tin của họ vào ơn cứu rỗi nơi Đức Giêsu. Tính chính xác lịch sử không quan trọng bằng khả năng thuyết phục về quan điểm thần học. Cả bốn Tin Mừng cho biết về truyền thống đức tin và những mối quan tâm thực tế của các cộng đoàn. Điều này có nghĩa nền tảng Kitô giáo được căn cứ trên sự tiếp nhận mạc khải Thiên Chúa nơi các cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Vì thế, tìm hiểu sứ vụ và cuộc đời của Đức Giêsu đòi hỏi chúng ta nhận ra nhãn quan đức tin mà bản Tin Mừng đang trình bày. Raymond Brown, nhà chú giải Kinh Thánh nổi danh của thế kỷ XX, chỉ ra rằng khi Giáo Hội sơ khai chấp nhận thư quy của các bản Tin Mừng Tân Ước, họ cũng đồng ý sống với các lưu tâm đặc thù trong đó.
Tin Mừng Máccô 1,14 tóm tắt giáo thuyết của Đức Giêsu: Nước Thiên Chúa đã gần kề, hãy ăn năn thống hối, đừng làm những việc tội lỗi và đón nhận Tin Mừng. Nước Trời như một vương quốc do chính sứ giả của Thiên Chúa mang đến bởi một nhân vật được gọi là “Con Người” (Mc 8,38). Nước Trời sẽ chấm dứt mọi trật tự xã hội và đảo ngược trật tự giữa kẻ quyền thế và người bị áp bức (Mc 13,26-27; 10,30). Người nghe cần chuẩn bị cho biến cố này bằng sự thống hối, từ bỏ con đường tội lỗi, phân phát của cải và sống cho tha nhân (Mc 1,15; Mc 10,13-44; Mt 13,45-46). Thiên Chúa muốn dân Người tuân phục Lề Luật, tóm tắt qua hai mệnh lệnh: “Yêu Thiên Chúa trên hết mọi sự!” (Đnl 6,4-6) và “Yêu tha nhân như chính mình!” (Lv 19,18). Những lời răn dạy này mang tính khẩn cấp vì trời đất đang qua đi và sự xuất hiện của Nước Trời đang xảy ra trước mắt người nghe (Mc 9,1; 13,30; 14,62).
Các bản Tin Mừng khác cho biết thêm một ít thông tin khách quan về cuộc đời của Đức Giêsu. Đức Giêsu khởi đầu sứ vụ lúc khoảng 30 tuổi, và sau ba năm rao giảng trong vùng Palestin, Ngài bị đóng đinh (Lc 3,23). Ngài có thói quen giảng dạy tại các Hội đường, nơi dân Do Thái thường tụ tập mỗi sáng thứ Bảy (Mt 4,23; Mt 9,35). Ngài vào các Hội đường không chỉ để loan báo Tin Mừng về Nước Trời đang hiện diện giữa chúng ta mà còn chữa lành đủ mọi loại bệnh tật (Lc 4,43). Đức Giêsu cho biết Ngài còn phải loan báo Nước Thiên Chúa cho những thành thị khác, vì “đó là lý do Chúa Cha đã sai” Ngài (Lc 8,1). Đức Giêsu giảng dạy cho mười hai môn đệ về sứ vụ của Ngài, sai họ đi rao giảng Tin Mừng và chữa lành bệnh tật cho muôn dân (Lc 8,6). Đức Giêsu cho biết Nước Trời sẽ đến trên mặt đất (Lc 9,11).
Sứ vụ của Đức Giêsu bắt đầu từ Galilê, miền bắc của Israel, và kết thúc tại Giêrusalem, nơi Ngài cùng các môn đệ ăn lễ Vượt Qua. Đức Giêsu muốn mang thông tin về sự khởi đầu của ơn cứu độ vào trung tâm Giêrusalem, nhắm vào đám lãnh đạo tôn giáo trong ngày đại lễ. Nhóm Xađốc chỉ đạo bộ hạ loại trừ Đức Giêsu như một tên phản động, vì họ lo sợ lời giảng của Ngài sẽ gây nổi loạn giữa đám đông trong ngày lễ Vượt Qua. Trong bữa Tiệc Ly cuối cùng với các môn đệ trước khi bị bắt, Đức Giêsu mong ước các môn đệ tiếp tục tái diễn nghi thức này để thể hiện sự hiệp nhất giữa Ngài và Giáo Hội. Sứ vụ của Đức Giêsu khép lại với cuộc Tử Nạn và Phục Sinh sau ba ngày. Sự kiện các môn đệ tuyên xưng Thiên Chúa làm cho Đức Giêsu sống lại có nghĩa là “Thiên Chúa muốn phục hồi sự công chính nơi Đức Giêsu”. Lời tuyên xưng này đánh dấu sự khởi đầu cho Kitô giáo. Đức Giêsu không tự tay thiết lập Giáo Hội Công Giáo như một cơ chế tách biệt khỏi Do Thái giáo. Nhưng niềm tin vào Đấng Phục Sinh là động lực cho các môn đệ mạnh dạn ra đi rao giảng Tin Mừng, qua đó Giáo Hội thành hình. Sau một thời gian, khi các môn đệ thông hiểu ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Kitô, họ bắt đầu thông diễn những “mầu nhiệm” khác như: Nhập Thể, thiên tính của Đức Giêsu và Ba Ngôi. Giáo Hội sơ khai trở thành nơi nuôi dưỡng ký ức và tâm thức về Đức Kitô. Tình huynh đệ và sự dấn thân mang Tin Mừng đến cho thế giới, minh chứng rằng Thánh Thần đang hoạt động nơi họ.
Tuy nhiên, niềm tin vào sự Phục Sinh không tránh khỏi vấn đề liên quan đến sử tính. Các “chứng cứ” chỉ tường thuật biến cố đưa xác Đức Giêsu vào mồ và các phụ nữ khám phá ngôi mộ trống. Một số môn đệ báo tin đã gặp Ngài trên bờ biển, trên đường về Emaus, hoặc trong phòng họp kín. Nhưng “Phục Sinh” là một mầu nhiệm nằm ngoài phạm vi trải nghiệm của con người, vượt trên mọi khả năng minh chứng theo tiêu chuẩn lịch sử. Những “trải nghiệm” này biến đổi tâm trạng và thay đổi thế giới quan của các môn đệ. Nó nói lên sự hoàn thành niềm hy vọng sâu sắc của con người, giúp các môn đệ hồi tưởng những gì Đức Giêsu lúc sinh thời nói về Mình. Nếu Đức Giêsu là người đầu tiên được sống lại, giai đoạn cuối thời đã bắt đầu. Các môn đệ tin rằng họ đang sống trong sự chờ đợi cuộc phán xét từ Con Người đang ngự trị trên Thiên Đàng. Các môn đệ cảm nhận sự hiện diện của Đức Kitô qua những lần họp nhau cầu nguyện và bẻ bánh với nhau. Từ niềm tin Đức Giêsu là “Logos” hằng hữu của Thiên Chúa, họ suy ra chính Ngài là Thiên Chúa.
THIÊN TÍNH CỦA ĐỨC KITÔ
Một khi các Kitô hữu tin Đức Giêsu là “Thiên Chúa” được sai đến cứu rỗi thế gian, họ cũng thắc mắc tại sao Thiên Chúa “được sinh ra” và nhất là tại sao Ngài “phải chết”? Từ từ, họ suy ra cái chết của Đức Giêsu không phải kết quả của bất công xã hội, mà nằm trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Đức Giêsu không làm gì nên tội để đáng chết, nhưng Ngài phải chết để đền thay tội lỗi cho kẻ khác. Như thế, chỉ trong vài năm khởi đầu, ý nghĩa thần học về cái chết và sự Phục Sinh của Đức Kitô được khai triển sâu rộng hơn, qua các nhãn quan đức tin khác nhau tại những cộng đoàn Kitô giáo thời tiền chính thống. Không người Do Thái nào chấp nhận Đấng Mêsia bị đóng đinh trên thập giá để chuộc tội cho thế gian. Vì thế, sứ vụ truyền giáo của Kitô hữu phải chỉ ra rằng Kinh Thánh đã tiên đoán điều này, và sự kiện Thiên Chúa làm cho Đức Kitô sống lại là chứng cứ Ngài công chính. Những ai tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Đấng Mêsia chết vì tội lỗi của thế gian, cũng sẽ được trở nên công chính trước Thiên Chúa. Trở thành Kitô hữu không phải là việc dâng lễ tế, mà phải có niềm tin đúng đắn về mối liên hệ của Thiên Chúa với thế giới. Điều này được Phaolô nhấn mạnh khi nói về biến cố chết và Phục Sinh của Đức Kitô (1 Cr 15,3-5).
Các tác giả tiền chính thống như Irênê và Tertulianô khai triển một số “quy luật đức tin” (regula fidei), vạch ra hướng đi chung cho suy tư thần học trong Giáo Hội.[1] Quy chuẩn chung này bao gồm: niềm tin vào một Thiên Chúa - Đấng tạo thành mọi sự, tin vào Đức Giêsu - Con của Ngài - vừa là Thiên Chúa vừa là con người, tin vào các phép lạ, các biến cố Tử Nạn, Phục Sinh, Thăng Thiên, và tin vào Chúa Thánh Thần sẽ hiện diện cùng Giáo Hội cho đến cuộc phán xét. Tác phẩm của Tertulianô, “Lời Răn Dạy Đối Với Những Kẻ Lạc Giáo” (Prescription of Heretics, Tertulianô) khẳng định rằng, các tín khoản được đúc kết thành công thức tuyên xưng đức tin, rất cần thiết cho bối cảnh có nhiều giáo lý sai lầm lưu hành. Nhiều nhóm Kitô hữu có khuynh hướng chối bỏ thần tính của Đức Giêsu hoặc cho rằng thần tính của Ngài quá mạnh đến nỗi Ngài không thể đau khổ vì không có thân xác thật sự.
Trong các thư gửi hai cộng đoàn Manhêđia và Philađenphia (“Magnesians và PhilCNelphians”), Inhaxiô cật lực phản đối “Ảo Thân Thuyết” (Docetism; trong tiếng Hy Lạp, từ “dokeo” nghĩa “vẻ bên ngoài” hay cái gì “tưởng tượng” ra), vốn cho rằng Đức Giêsu là một vị thần, nhưng Ngài xuất hiện như con người bằng xương bằng thịt qua vài loại ảo ảnh. Inhaxiô lý luận rằng nếu điều này đúng thì biến cố chịu nạn trên thập giá không thật, và việc tử đạo sắp đến của ngài cũng vô nghĩa (Thư gửi Cộng đoàn Smyrneans 4,2).
Ảo Thân Thuyết xuất phát từ cách chú giải cực đoan của Marcion vốn thổi phồng sự khác biệt giữa Lề Luật và Tin Mừng mà Phaolô đã phân tích. Marcion, qua nhãn quan ngộ giáo, và kết luận có hai Thiên Chúa: Thiên Chúa của Lề Luật tạo nên thế giới vật chất. Thiên Chúa của Tin Mừng gửi Đức Giêsu đến giải thoát nhân loại khỏi Thiên Chúa của Cựu Ước. Vì Đức Giêsu không thuộc thế giới vật chất, Ngài không có thân xác và không thể chết cho tội lỗi của con người. Các thư của Phaolô (Pl 2,6-11) và Tin Mừng Gioan khẳng định thần tính của Đức Giêsu. Nhưng phái Ảo Thân cho rằng thần tính của Đức Giêsu quá mạnh đến nỗi Ngài không thể là con người bình thường (1 Ga 2,19). Phái này còn giải thích rằng Giuđa Ítcariốt hay Simon làng Xirênê, qua cách phép màu nào đó, đã thay thế Đức Giêsu trong biến cố đóng đinh và chịu chết trên thập giá. Inhaxiô chỉ trích sự sai lầm trong cách giải thích này, khẳng định máu của Đức Giêsu chịu chết trên thập giá là “máu của Thiên Chúa” (Ep 1,1) và gọi Đức Giêsu là “Thiên Chúa của chúng ta” (Gl 1,1).
Một ý kiến sai lầm khác về thần tính của Đức Kitô đến từ linh mục Ariô (256-336 CN), khẳng định rằng dù Đức Giêsu là Thiên Chúa, bản tính thần linh của Ngài thấp kém hơn Chúa Cha. Chủ thuyết “Arianism” lý luận rằng nếu Đức Giêsu là Chúa Con thì Chúa Cha phải có trước, nghĩa là đã có một khoảng “thời gian” mà Chúa Con hay “Logos” chưa tồn tại. Như thế, Chúa Con không đồng hàng với Chúa Cha. Tại Công Đồng Chung Nicêa, chủ thuyết “Arianism” bị lên án, nhưng không có nghĩa nó chấm dứt. Chủ thuyết này được các tín đồ ở Đông Phương tiếp tục ủng hộ và gây khó khăn cho nhiều vị lãnh đạo nơi Giáo Hội Tây Phương.
Cuối cùng, còn có hai chủ thuyết chối bỏ hoàn toàn thần tính của Đức Giêsu. Nghĩa Tử Thuyết (Adoptionism) cho rằng Đức Giêsu chỉ là một con người tốt lành và xứng đáng được chọn làm “Con Thiên Chúa”, vốn là truyền thống đã có từ Cựu Ước và để lại dấu vết trong Tân Ước. Nhóm thứ nhì gồm những Kitô hữu gốc Do Thái (Ebonites), vốn chấp nhận Đức Giêsu là Đấng Mêsia nhưng không phải Thiên Chúa. Như thế, trong giai đoạn tiền chính thống chưa có sự thống nhất về thần tính của Đức Giêsu.
AI VIẾT CÁC BẢN TIN MỪNG?
Suy tư thần học bắt đầu lâu trước khi các bản Tin Mừng được viết xuống. Chỉ trong sáu thập niên sau cái chết của Đức Giêsu, Kitô giáo lan rộng khắp các vùng miền của Đế quốc Rôma, qua lời truyền khẩu cùng thư từ đến từ các Tông Đồ và Tông Phụ. Tính xác thực về những gì xảy ra không quan trọng bằng niềm tin và sức mạnh ân sủng mà truyền thống lưu lại về “biến cố Kitô”. Sau nhiều năm, nhiều bản “Tin Mừng” thành hình, thuật lại các câu chuyện về cuộc đời Đức Giêsu và được lưu truyền trong Đế quốc Rôma. Bốn Tin Mừng Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan là các bản văn đáng tin cậy nhất. Dù viết bởi tác giả ẩn danh, họ là những người tài ba, học thức cao, thông thạo tiếng Hy Lạp mà các tín hữu Kitô đang dùng trong các vùng miền của Đế quốc Rôma, khác với dân bản địa thời Đức Giêsu dùng tiếng Aram.[2]
Các bản Tin Mừng là tài liệu sớm nhất về biến cố Kitô nhưng không phải tất cả được chấp nhận vào thư quy Tân Ước. Lúc đầu, các Tin Mừng được cho là do các Tông Đồ biên soạn, nhưng dần dần các học giả chỉ ra rằng Tin Mừng không phải bản tường thuật hay chứng kiến những gì mắt thấy tai nghe. Trái lại, đây là sự đúc kết từ thông tin truyền khẩu, bản văn đã lưu truyền nơi các cộng đoàn tín hữu qua nhiều thập niên sau biến cố Kitô. Mỗi bản Tin Mừng là một trình thuật được thánh ký góp nhặt và sắp xếp lại sao cho phù hợp với quan điểm thần học của cộng đoàn đức tin. Các bản Tin Mừng sau dùng các bản trước đó như nguồn liệu, chẳng hạn cách Tin Mừng Mátthêu và Luca dùng Tin Mừng Máccô. Sự khác biệt giữa các tường thuật về chi tiết lẫn điểm nhấn của mỗi thánh ký gây khó khăn cho sử gia muốn xác thực thời điểm và những gì đã xảy ra. Điều này chứng tỏ Tin Mừng không phải “sử ký” mà là tuyên xưng đức tin về ơn cứu độ từ Đức Kitô, vốn được cho là linh ứng bởi mỗi cộng đoàn đức tin.
Vì các Tin Mừng được viết khoảng 40 đến 70 năm sau Đức Giêsu, cho nên không thể biết chắc có thánh sử nào đã thật sự trải nghiệm và chứng kiến tận mắt những gì được mô tả lại. Ngay cả Phaolô, tác giả sớm nhất của Tân Ước, cũng không phải môn đệ của Đức Giêsu khi Ngài còn sống. Đức Giêsu nói tiếng Aram nhưng Tân Ước ghi lại bằng tiếng Hy Lạp. Đức Giêsu là người Do Thái, sống và chết như người Do Thái. Các Tin Mừng đều được viết bởi những người thông thạo tiếng Hy Lạp, sau nhiều thập niên của biến cố mà chúng kể lại, trong lúc đó các môn đệ của Đức Giêsu là những người ít học và nói tiếng Aram. Hai tác giả của Tin Mừng Luca và Gioan thú nhận rằng họ thừa hưởng các mẩu chuyện từ truyền thống truyền khẩu. Lời nói và hành vi của Đức Giêsu được truyền lại cho các giáo đoàn, nhưng chính người kể lại cũng không thắc mắc về tính chân thực của các trình thuật. Các mẩu chuyện đã được thay đổi cho phù hợp bối cảnh. Sự mâu thuẫn hoặc đáng hoài nghi về tình tiết trong câu chuyện, như việc kiểm kê dân số trong Tin Mừng Luca, là cơ hội để các sử gia khai thác mục đích thần học của tác giả đứng sau trình thuật đó.
Ngoài ra, tên gọi của các bản Tin Mừng như “Mátthêu” (người thu thuế), “Gioan” (con trai của Dêbêđê), “Máccô” (thư ký của Phêrô), và “Luca” (người đồng hành với Phaolô) cũng là những chủ đề cho nghiên cứu. Nếu Mátthêu thật sự viết một cuốn sách về lời nói và thực hành của Đức Giêsu, lẽ ra phải gọi đó là “Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô” hay “Cuộc Đời và Cái Chết của Đấng Cứu Độ”. Do đó, người nào gán tên “Tin Mừng Theo Thánh Mátthêu” cho bản văn này, có lẽ muốn độc giả biết đây là phiên bản của thánh “Mátthêu” về Đức Giêsu. Hơn nữa, trên các bản văn gốc không ghi tên tác giả, và không có Tin Mừng nào tự cho mình được viết bởi nhân chứng gốc. Trong câu Mt 9,9, có đề cập một người tên Mátthêu, nhưng không nói gì về việc người ấy là tác giả. Câu Mt 21,24 cho biết tác giả không phải chứng nhân mà dựa theo trình thuật của các nhân chứng khác. Nói chung, các Tin Mừng trong Tân Ước đều được viết bởi những tác giả ẩn danh.
Papias, một nhân vật ít được biết đến (120-130 CN), ghi lại rằng Tông Đồ Phêrô rao giảng về “Lời và Đời Sống” của Đức Giêsu tùy theo nhu cầu hoàn cảnh; và sau đó Máccô, thư ký của ngài, viết các mẩu chuyện này xuống, nhưng “không theo thứ tự nào hết. Papias cho biết ông nhận thông tin này từ một Kitô hữu cao niên có lẽ đã chứng kiến tận mắt những gì Phêrô đã giảng. Papias cũng viết thêm rằng Mátthêu ghi lại các lời giảng của Đức Giêsu bằng tiếng Hípri và “mọi người diễn giải chúng theo khả năng riêng”. Papias không nói gì về Tin Mừng Luca hay Gioan. Tài liệu của Papias, dù không trích dẫn Máccô, đã cho biết tác giả của Tin Mừng Máccô không phải nhân chứng gốc mà được một tín hữu cao niên khác kể lại. Ngoài những gì đến từ Papias, chúng ta không nghe thấy gì về tên của các tác giả Tin Mừng mãi đến cuối thế kỷ II.
Hầu hết sử gia đồng ý rằng các sách Tin Mừng thể hiện khả năng viết bằng tiếng Hy Lạp khá điêu luyện. Cách Tông Đồ Công Vụ cho biết hai Tông Đồ Phêrô và Gioan đều không biết chữ (Cv 4,13), do đó khó khẳng định các môn đệ của Đức Giêsu là tác giả của các bản Tin Mừng mang tên họ. Các học giả cho rằng tên gọi của các bản Tin Mừng Mátthêu, Máccô, Luca và Gioan chỉ là vấn đề thuận tiện qua lịch sử. Cả hai tác giả của Luca, Gioan và Papias đều cho biết Tin Mừng được căn cứ trên những báo cáo lưu truyền từ các Kitô hữu trước đó; như thế, chúng có thể truy tầm ngược lại đến những nhân chứng tiên khởi (Lc 1,1-4). Nhưng khi các nhân chứng tiên khởi kể lại thì chi tiết không tránh khỏi bị thay đổi. Như thế, không có gì bảo đảm rằng lời của các nhân chứng kể lại qua nhiều thế hệ thật sự chính xác như đã xảy ra.
Nói tóm lại, Tin Mừng đến với dân ngoại qua những lời giáo huấn và mẫu chuyện đã được thay đổi để thích ứng với thời gian, không gian, văn hóa cũng như niềm tin và ngôn ngữ địa phương. Trong thế giới mà phương tiện truyền thông đại chúng còn rất giới hạn, hầu hết người giảng và người nghe không có cơ hội kiểm chứng tính chân thực của lời chứng, dù họ có muốn hay không. Thật vậy, nhu cầu kiểm chứng ngôn ngữ chỉ xảy ra trong văn hóa dựa trên chữ viết; còn trong văn hóa truyền khẩu, việc giả định các mẩu chuyện cần thay đổi để phù hợp với nhu cầu bối cảnh và thính giả là đương nhiên. Tất cả các Tin Mừng Tân Ước đến với chúng ta qua tiến trình thông diễn phức tạp này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Carroll, John. Constantine’s Sword: The Church and the Jews. A History. Boston: Houghton Mifflin, 2001. Tác phẩm nghiên cứu tác động của biến cố Constantine cải đạo trên não trạng bài-Do Thái.
Cartlidge, David R., and David L. Dungan, eds. Documents for the Study of the Gospels, 2nd ed. Philadelphia: Fortress, 1994. Tác phẩm sơ lược tầm quan trọng của Do Thái giáo và tâm thức tôn giáo của xã hội Hy-La.
Roetzel, Calvin. The World That Shaped the New Testament. 2nd ed. Louisville: John Knox Press, 2002. Sách này cung cấp một cái nhìn tổng quát về thế giới Do Thái và Hy-La.
Sanders, E. P. The Historical Figure of Jesus. London: Penguin, 1993. Đây là một khai lộ hữu ích cho sinh viên về cuộc sống và giáo huấn của Đức Giêsu lịch sử.
Simon, Marcel. Verus Israel: A Study of the Relations between Christians and Jews in the Roman Empire (135– 425). Tr. H. McKeating. New York: Oxford, 1986. Đây là nghiên cứu về tương quan Do Thái-Kitô giáo trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo hội.
Williamson, G. A. Eusebius: The History of the Church from Christ to Constantine. Rev. and ed. Andrew Louth. London: Penguin, 1989. Đây là một bản dịch của cuốn “Lịch sử Giáo hội” của Êusêbiô.
------------------------------------------
[1] Bart Ehrman, After the New Testament (Oxford University Press, 1999).
[2] x. Henry Chadwich, The Early Church (NY: Penguin Publisher, 1993).