Cách nay 351 năm Ninh Hòa Xưa có tên là phủ Thái Khang, gồm 2 huyện Quảng Phước, Tân Định, chạy dài từ Đèo Cả đến phủ Diên Ninh (Diên Khánh).
Chúng tôi mạo muội ghi lại đôi dòng lịch sử, chắc chắn còn nhiều thiếu sót nhầm lẫn, kính mong được sự chỉ giáo của các bậc cao minh và quý đồng hương để sự hiểu biết của chúng ta về Tiền Nhân và Quê Hương mỗi ngày một thêm sáng tỏ, xin đa tạ quý vị.
Bài viết này căn cứ vào các tài liệu tham khảo quý giá có liệt kê ở cuối bài, người viết xin mạn phép và chân thành cám ơn quý tác giả, cùng các nhà xuất bản.
Ghi Chú: Bản đồ (Góc trên cùng bên tay trái) - Ninh Hòa Xưa tức là Phủ Thái Khang gồm hai huyện: Van Ninh, Ninh Hòa và một phần của Khánh Dương ngày nay.
ĐÔI DÒNG LỊCH SỬ:
Lịch sử Ninh Hòa Xưa gắn liền với lịch sử tỉnh Khánh Hòa.
Tỉnh Khánh Hòa là phần đất của nước Tây Đồ Di, nước Tây Đồ Di (Lin Yi) còn gọi là Lâm Ấp ra đời khoảng năm 190-192 độc lập hùng cường, trong lúc nước ta (người Tàu đặt tên là Giao Chỉ) còn bị lệ thuộc nhà Hán, về sau nước Lâm Ấp bị Chiêm Thành (Champa, Nagara Campa) chiếm mất.
⇒ Theo "Xứ Trầm Hương", Khánh Hòa là châu Kaut Hara của Chiêm Thành, người Tàu gọi là Kautan.
⇒ Theo "Sài Gòn 300 năm cũ" phần đất Khánh Hòa (Kanthara, Kanthara chứ không phải Kaut Hara), Phan Rang (Panduranga) và Bình Thuận được gọi là miền Nam Chiêm Thành.
⇒ Sử nhà Minh chép Chiêm Thành có 27 xứ, 4 phủ, 7 châu, 22 huyện, nước An Nam lấy chỉ còn 5 xứ Bang Đô Lang (Phan Đô Lung) đến Chân Lạp mà thôi.
⇒ Cũng theo Quách Tấn, Cù Huân là tên cổ dùng để gọi Khánh Hòa có lẽ do tiếng Kaut Hara đọc trại ra, Nha Trang hiện còn địa danh "cầu Hà Ra, xóm Hà Ra".
⇒ Sách "Phủ Biên Tạp Lục" ghi: "Năm 1653 Vua Chiêm là Bà Tấm quấy rối đất Phú Yên, Chúa Nguyễn Phúc Tần sai 3.000 quân đi đánh (....) Bà Tấm xin hàng và cắt đất từ sông Phan Rang trở ra đến Phú Yên dâng cho, Chúa Nguyễn đặt làm 2 phủ: phủ Thái Khang và phủ Diên Ninh (Diên Khánh)".
⇒ Sách "Việt Nam Sử Lược" chép: "Năm Quý Tỵ (1653) Vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh. Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm Thái Ninh phủ, sau đổi làm phủ Diên Khánh (tức là Khánh Hòa bây giờ), đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm thái thú."
⇒ Sách "Sài Gòn 300 năm cũ" ghi: "Năm 1653 đến lượt chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần đưa quân dân vượt đèo vượt núi (Thạch Bi) lấn chiếm lãnh thổ Chiêm Thành đến tận Phan Rang, đặt dinh Thái Khương với hai phủ Thái Khương (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Khánh)."
⇒ Sách "Xứ Trầm Hương" viết: "từ sông Phiên Lang trở ra đến Phú Yên thì chiếm cứ, lập ra hai phủ là Diên Ninh và Thái Khang, và 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu, Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh, và Tân Định, Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang. Hùng Lộc được bổ làm Thái Thú cai trị hai phủ. Dinh đóng tại Thái Khang."
Từ 4 sử liệu trên, chúng ta có thể kết luận rằng năm 1653, cách nay 351 năm, Vua Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu đất Phú Yên, Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần sai quan Cai cơ Hùng Lộc dẫn 3.000 quân vượt đèo vượt núi Thạch Bi (đèo Cả) sang đánh, Vua Chiêm đại bại dâng thư xin hàng và cắt châu Kaut Hara của Chiêm Thành từ sông Phan Rang ra đến Đèo Cả dâng cho, Chúa Nguyễn đặt dinh Thái Khang với 2 phủ, 5 huyện. 2 phủ là Thái Khang (Ninh Hòa) và Diên Ninh (Diên Khánh). 5 huyện là Phước Điền, Hòa Châu,Vĩnh Xương thuộc phủ Diên Ninh; Tân Định, Quảng Phước thuộc phủ Thái Khang. Hùng Lộc được cử làm Thái Thú cai trị 2 phủ, dinh đóng tại Thái Khang tức Ninh Hòa bây giờ.
Huyện Tân Định thuộc địa phận Ninh Hòa, còn huyện Quảng Phước thuộc địa phận Vạn Ninh bây giờ.
⇒ Theo tác giả Quách Tấn, từ khi châu Kaut Hara của Chiêm Thành thuộc về ta "cơ quan cai trị đều đóng ở Bình Khang cho đến đời Nhà Nguyễn Trung hưng mới dời vào Diên Khánh. Dinh quan trấn thủ đóng trong vùng Ninh Hòa hiện tại. Nhân sông chảy qua trước dinh, người địa phương mới gọi là sông Dinh cho gọn."
⇒ Theo tác giả Nguyễn Thặng: "Huyện Ninh Hòa trước kia là huyện Tân Định thuộc phủ Thái Khang có ranh giới từ đèo Rù Rì đến sông Dinh (...) Dinh Bình Khang có thủ phủ đóng trên bờ Bắc sông Dinh thuộc làng Phước Đa."
⇒ Theo tác gả Nguyễn Đình Tư: "Vào khoảng 1930-1931 (...) chính phủ thực dân Pháp bèn đổi huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa (tức Ninh Hòa bây giờ), còn phủ Ninh Hòa cũ thì đổi là huyện Vạn Ninh, tên Tân Định mất hẳn từ đó."
⇒ Tác giả Trần Đình Tây trong bài "Hòn Khói Quê Tôi" viết: " Trước năm 1930 Hòn Khói quê tôi là Tổng Hà Ngoại trực thuộc huyện Vạn Ninh. (....) Hòn Khói cách huyện Vạn Ninh dộ 50 cây số đường biển, cách huyện Ninh Hòa hơn 10 cây số. Thuở ấy, tổ tiên chúng ta di chuyển từ nơi này đến địa phương nọ chỉ có 2 phương tiện duy nhất là đi bộ hoặc bằng ghe thuyền. Từ Hòn Khói lên Vạn Ninh (Vạn Giã) đêm nào cũng có "ghe đò" chở khách lên xuống - một đêm đi lên, một đêm đi xuống - ghe đò nằm tại bến Bình Tây kẻ đi người về tấp nập (...) Từ làng Phú Thọ đi lên Ninh Hòa phải qua Chánh Thanh, sườn núi Hòn Hèo, rồi đến đèo Hà Thanh tức đèo Bánh Ít cho đến đầu làng Phước Đa đều là rừng rậm. Thuở ấy cọp beo, thú dữ vô số (...) Hòn Khói cách Ninh Hòa gần hơn đi Vạn Ninh mà ít ai muốn liên lạc, kể cả quan quân... Bởi lý do giao thông trắc trở như thế nên Hòn Khói tức Tổng Hà Ngoại năm xưa trực thuộc huyện Vạn Ninh là vậy."
Ninh Hòa xưa mang tên Thái Khang tới 37 năm mới đổi thành Bình Khang, do đó theo tôi, tên con sông Dinh không phải đợi tới khi đổi thành Bình Khang mới "gọi là sông Dinh cho gọn" mà đã có từ khi Ninh Hòa còn mang tên Thái Khang, và tôi cũng tin 1 số địa danh khác như Núi Ba Non, Hòn Vọng Phu, v.v... cũng xuất hiện rất sớm trong khoảng thời gian ấy.
Tôi đồng ý với Ông Nguyễn Thặng "dinh Bình Khang có thủ phủ đóng trên bờ Bắc sông Dinh", nhưng "đóng tại làng Phước Đa" theo tôi không phải là dinh Bình Khang, dinh Bình Khang đóng tại làng Vĩnh Phú bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh gần khu vực cầu Dinh hiện nay. Đóng tại làng Phước Đa là phủ đường Bình Khang (về sau đổi là phủ đường Ninh Hòa), theo xác minh của anh Trần Thế Vinh tuổi trên 60, quê Thuận Lợi, Ninh Hòa cho biết như sau:
"Từ cầu Dinh thuộc Thị trấn Ninh Hòa đi ra hướng Bắc chừng 1 cây số là tới cống Phước Đa, gần cống có 1 con đường rẽ trái, đi khoảng hai, ba trăm mét sẽ gặp một khu đất cao (thuộc làng Phước Đa), chính nơi đây ngày xưa là Phủ đường của phủ Ninh Hòa, cho nên dân chúng mới gọi con đường này là "đường lên phủ cũ", về sau có lẽ vào thời Pháp, Phủ đường được dời về địa điểm mới gần khu vực Ngã Ba Bùng Binh Thị trấn Ninh Hòa hiện nay".
Tóm lại, Phủ đường Thái Khang là nơi làm việc của quan Tri Phủ phủ Thái Khang đóng tại làng Phước Đa, xã Ninh Đa, huyện Ninh Hòa. Còn dinh Thái Khang là nơi làm việc của quan Thái Thú (khi đổi thành Bình Khang thì gọi là quan Trấn Thủ) cai trị 2 phủ đóng bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh gần khu vực cầu Dinh thuộc làng Vĩnh Phú, xã Ninh Hiệp, tức Thị Trấn Ninh Hòa ngày nay.
Có nghĩa là sông chảy ngang qua dinh Thái Thú được gọi là sông Dinh, cầu bắt ngang qua sông được gọi là cầu Dinh, và chợ bên kia sông được gọi là chợ Dinh.
Khoảng năm 1930-1931 huyện Tân Định được đổi thành phủ Ninh Hòa.
⇒ Theo Ô. Nguyễn Thặng, huyện Tân Định có ranh giới từ sông Dinh đến đèo Rù Rì.
⇒ Còn tác giả Nguyễn Đình Tư (viết năm 1968) thì cho biết đèo Rọ Tượng là ranh giới của "hai quận Vĩnh Xương và Ninh Hòa" cùng một ý kiến với Thi sĩ Quách Tấn.
Như vậy, ranh giới của Ninh Hòa xưa ở phía Bắc là Đèo Cả, còn ở phía Nam thì thay đổi theo thời gian, lúc thì tại đèo Rù Rì, lúc thì tại đèo Rọ Tượng, và hiện nay là tại cuối thôn Ngọc Diêm xã Ninh Ích, huyện Ninh Hòa giáp ranh với xã Vĩnh Lương, huyện Vĩnh Xương.
Còn sông Dinh có phải là ranh giới giữa 2 huyện Tân Định (Ninh Hòa) và Quảng Phước (Vạn Ninh) như tác giả Nguyễn Thặng đã viết hay không? Hay là tại đèo Bánh Ít hoặc dốc Đá Trắng? Xin thỉnh cầu ý kiến của quý vị trưởng bối.
⇒ Có 3 tư liệu quý tôi xin ghi ra đây để giúp cho các nhà nghiên cứu:
- Hòn Khói trước năm 1930 có tên là Tổng Hà Ngoại trực thuộc huyện Quảng Phước tức huyện Vạn Ninh bây giờ (theo tác giả Trần Bình Tây).
- Chuông chùa Thanh Lương thôn Nhĩ Sự , xã Ninh Thân, huyện Ninh Hòa đúc năm 1763 còn lưu tại chùa, có ghi câu: "Đại Việt quốc, Quảng Nam xứ, Vương Thái hà, Tân Định huyện , Tổng Trung, Bình An xã, Bình An thôn." Bình An thôn là thôn Nhĩ Sự bây giờ.
- Bức Giới Đao Độ Điệp của Bộ Lễ triều Minh Mạng cấp cho Đại Đức Liễu Bửu-Huệ Thân trụ trì chùa Thiên Bửu Hạ, thuộc thôn Mỹ Hiệp, xã Ninh Hiệp, huyện Ninh Hòa năm 1835 còn lưu tại chùa, có ghi câu: "Khánh Hòa tỉnh, Tăng Lê văn Tự, pháp danh Liễu Bửu, quán Khánh Hòa tỉnh, Ninh Hòa phủ, Tân Định huyện, Trung Tổng, Toàn Thạnh xã." Toàn Thạnh xã sau đổi thành thôn Mỹ Thạnh, rồi thôn Mỹ Hiệp tức Thị trấn Ninh Hòa bây giờ.
Tại sao Dinh Thái Khang không đặt tại Nha Trang hay Diên Khánh mà đặt tại Ninh Hòa?
⇒ Theo tôi, trong binh pháp, việc giữ đất giữ thành khó hơn chiếm đất chiếm thành, kinh nghiệm lịch sử cho thấy trong quá khứ quân Chiêm Thành thường sang quấy nhiễu nước ta, thường hay đánh chiếm lại những vùng đất đã mất. Thời Chế Bồng Nga họ đã đánh tới Thăng Long và đốt rụi cả Kinh Thành nhà Trần. Do đó, quan Thái thú Hùng Lộc vốn là một vị danh tướng văn võ toàn tài và Chúa Hiền là một vị Chúa thông minh sáng suốt, sau khi chiếm được châu Kaut Hara của Chiêm Thành không đặt dinh Thái Khang ở Diên Khánh hay Nha Trang mà đặt dinh ở Ninh Hòa nằm bên bờ tả ngạn tức bờ Bắc sông Dinh là có ý lo xa đề phòng trường hợp quân Chiêm có thể tái chiếm. Từ Phan Rang muốn chiếm dinh Thái Khang quân Chiêm phải chiếm phủ Diên Ninh, từ đó tiến ra Thái Khang họ phải vượt qua ba bốn chục cây số trên con đường độc đạo với 1 địa hình hiểm trở có 2 con sông và 2 ngọn đèo ngăn chận... Do đó đặt dinh Thái Khang ở Ninh Hòa vào thời điểm đó về mặt phòng thủ an toàn vững chắc hơn đặt ở Nha Trang hay Diên Khánh. Còn về mặt hành chánh, tiếp tế và liên lạc với phủ Chúa ở Phú Xuân cũng thuận lợi dễ dàng hơn. Riêng về kinh tế thì phủ Thái Khang tương đối cân đối đồng đều hơn về công nông lâm ngư nghiệp, có đủ lúa gạo, cá, muối... để quân, dân có thể tạm thời tự túc trong thời gian chờ viện binh.
Sau khi đặt dinh chia phủ, cử quan thái thú lập xong bộ máy cai trị, Chúa Hiền cho tiến hành chính sách di dân đã có 40 năm trước thời Chúa Tiên (1611).
⇒ Theo tác giả Nguyễn Xuân Lâm: "Năm 1648, chiến tranh Trịnh Nguyễn xảy ra quyết liệt, quân Nguyễn bắt được gần 3 vạn tù binh đưa hết vào những vùng đất từ Quảng Nam đến Phú Yên khai khẩn. Cứ 50 người làm 1 ấp được cấp công cụ và lương thực trong nửa năm đầu. Ba năm đầu khỏi nộp thuế. Nhờ chính sách di dân khai hoang tích cực này, Thuận Quảng diện tích canh tác được mở rộng, nhiều làng xóm mọc lên ngày càng đông."
Sách "Lịch sử Việt Nam Tập I" trang 293 ghi: "Họ Nguyễn đẩy mạnh công cuộc khai hoang bằng chính sách khẩn hoang lập làng. Nông dân di cư và tù binh là lực lượng chủ yếu. Họ được cấp nửa năm lương thực và 1 số nông cụ, rồi chia thành từng đoàn đi khai phá đất hoang lập thành những làng ấp mới. Ruộng đất khai khẩn sung vào làm ruộng đất công của làng đặt dưới quyền sở hữu tối cao của họ Nguyễn."
⇒ Tác giả Nguyễn Thặng cho biết: "Giữa thế kỷ thứ 17, cư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định đến Ninh Hòa sinh sống. Họ cư trú mở mang trước tiên ở những vùng đất bằng, trên 2 bờ sông Dinh, ven các trục giao thông, trên cửa sông, cửa biển, những nơi có điều kiện đi lại, lui về thăm quê cũ thuận tiện. Những xóm làng đầu tiên của Ninh Hòa là những làng xung quanh Ngã Ba sông Dinh, nay là Thị trấn Ninh Hòa và các thôn ở vùng ven."
Qua 3 trích dẫn trên, chúng ta biết đoàn di dân vào 2 phủ Thái Khang và Diên Ninh, hầu hết lấy từ vùng Thuận Quảng... gồm những người nghèo khổ không ruộng đất, và những tù nhân tù binh được cho đi khai khẩn đất hoang để lập công chuộc tội...
Tôi tin đợt di dân thời Chúa Tiên vào khai khẩn đất Phú Yên đã mau chóng thành tựu nhờ chính sách khẩn hoang lập làng rất tích cực của Chúa Nguyễn, cũng như Phú Yên là vựa lúa miền Trung có đồng bằng sông Đà Rằng rộng lớn phì nhiêu khác hẳn với vùng Thuận Hóa cằn cỗi đất cày lên sỏi đá, khí hậu khắc nghiệt trời hành cơn lụt mỗi năm. Trong vòng 40 năm đủ dài để đời sống cư dân ổn định sung túc là một hình ảnh đầy sức thuyết phục sau mỗi chuyến họ về thăm cố hương thay cho ngàn câu tâm lý chiến tuyên truyền... khiến Chính sách Di dân và Phong trào Nam Tiến của Chúa Nguyễn được thuận lợi.
Do đó, sau khi Chúa Hiền phát động chiến dịch di dân vào đất Thái Khang, tôi tin rằng Tổ tiên chúng ta đã vui vẻ hưởng ứng, hăng hái lên đường với bao niềm tin tưởng lạc quan hy vọng trong lòng. Tất cả được chia thành nhiều toán, mỗi toán 50 người nhận nửa năm lương thực, dụng cụ... di chuyển bằng đường bộ, đường biển vào đất Thái Khang để khẩn hoang lập làng, ruộng đất khẩn được, họ được làm ăn miễn thuế trong 3 năm đầu. Những vùng đất ven biển Đại Lãnh, ven cửa Vạn cửa Giã, cửa Hà Liên, cửa sông Dinh, Hòn Khói, ven sông Tu Bông, sông Bình Trung, sông Vạn Giã, sông An Lương, sông Dinh, sông Cầu Lấm, ven Quốc lộ số 1 như Tu Bông, Vạn Giã, Phước Đa, Vĩnh Phú, Vĩnh Hiệp, Phong Ấp, Thuận Lợi, Thuận Mỹ, Mỹ Trạch, ven Bến Đò như Tân Tế, Phong Phú... Có lẽ đó là những địa điểm mà lưu dân đặt chân tới đầu tiên, nhà cửa được cất lên đầu tiên, làng xã được lập ra đầu tiên. Từ đó sẽ tỏa rộng ra như "tầm thực" trên những vùng đồng bằng màu mỡ Đồng Găng, Đồng Mốc, Đồng Đáy, Đồng Gáo, Đồng Bà Chỉ, Đồng Đụt, Đồng Tân Phước, Hội Khánh, Tứ Chánh, Bình Trung, Phú Cang, Quảng Hội, Mỹ Đồng, v.v... ở Vạn Ninh, Đồng Cháy, Đồng Nẩy, Đồng Chuôm, Đồng Lau, Đồng Thân, Đồng Khách Mười, Đồng Nghi Xuân, Vĩnh Thịnh, Ninh Ích, Quang Đông, Điềm Tịnh, Xuân Hòa, Phú Bình, Phú Hòa, Đại Tập, Đại Mỹ, Hà Thanh, Thanh Châu, Tân Hưng, Trường Lộc v.v... ở Ninh Hòa.
⇒ Theo "Phủ Biên Tạp Lục" đường sá đi lại lúc bấy giờ chỉ là những con đường mòn nhỏ hẹp băng qua nhiều truông nhiều đèo rậm rạp hiểm trở. Đoạn qua đèo Hổ Dương (Đèo Cả) có nhiều đá đen lởm chởm. Đường bộ thì đi bộ, đôi khi đi bằng ngựa. Còn đường thủy thì đi bằng thuyền buồm, như đoạn từ Hòn Khói đến Hội An (Quảng Nam) trời tốt chỉ đi chừng năm ba ngày.
Từ đó, chúng ta có thể hình dung vào thời xa xưa tại phủ Thái Khang khu vực 2 bên Cầu Dinh tấp nập người qua kẻ lại... dưới sông ghe thuyền xuôi ngược, trên bờ lưu dân gồng gánh, binh lính xa mã rộn ràng... bên này sông, dinh Thái Khang cờ xí tung bay, bên kia sông, chợ Dinh người buôn kẻ bán, và xa hơn, ẩn hiện sau những bờ tre đám chuối hàng cau... là nhà cửa của các tân thôn Vĩnh Phú, Mỹ Hiệp, tức Thị trấn Ninh Hòa bây giờ.
Tài liệu tham khảo:
♦ Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn.
♦ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim.
♦ Lịch Sử Đ.B. Ninh Hòa của Nguyễn Thặng.
♦ Sài Gòn Ba Trăm Năm Cũ của Nguyên Hương Nguyễn Cúc.
♦ Xứ Trầm Hương của Quách Tấn.
♦ Non Nước Khánh Hòa của Nguyễn Đình Tư.
♦ Các Đặc San Khánh Hòa-Nha Trang tại: Orlando, Houston, Nam Cali, Bắc Cali (nhiều số).VINH HỒ (Orlando, Tháng 6/2004)
Nguồn: Ninh Hòa xưa