×

Giỏ hàng

295   2025-11-29 10:47:41

CÓ PHẢI ISAIA ĐÃ SỐNG ĐƯỢC 300 TUỔI KHÔNG?

Phạm Ngọc Luận chuyển ngữ từ:

Ariel Álvarez Valdés, The Bible: Questions People Ask - Vol. 2: Old Testament (Claretian Publications, 2005), 61-71.

 

CÓ AI ĐỌC SÁCH ISAIA TRONG MỘT LẦN KHÔNG?

Cuốn sách dài nhất trong Kinh Thánh là sách ngôn sứ Isaia, gồm 66 chương và 1289 câu.

Rất ít người có thể ngồi xuống và đọc nó chỉ trong một lần. Có lẽ, chẳng có ai thực sự làm như vậy. Ngôn từ phức tạp, thể loại thi ca, cũng như chiều sâu và ý nghĩa của những sấm ngôn trong sách này đòi hỏi phải đọc chậm rãi và bình thản. Nếu có ai đã đọc sách Isaia, hẳn người ấy sẽ rất bất ngờ. Trước tiên, cuốn sách bắt đầu với nhan đề rằng Isaia đã sống và rao giảng dưới triều đại của bốn vị vua Giuđa: Útđigiahu (Uzziah), Giôtham (Jotham), Akhát (Ahaz) và Khítkigia (Hezekiah). Đó dường như là khoảng giữa năm 767 và năm 698 tCN. Trong thực tế, khi độc giả lướt qua các trang sách này, họ sẽ bắt gặp các sấm ngôn liên quan đến giai đoạn cụ thể này.

Đọc tiếp, họ sẽ nhận thấy rằng Isaia nói với những vị vua đã được đề cập trước đó: Útđigiahu, Akhát và Khítkigia. Họ cũng sẽ bắt gặp những nhân vật khác như: Pecác (Pekah), vua của xứ Samari; Rơxin (Rezin), vua của Đamát; và Xácgôn (Sargon), vua của Átsua. Độc giả sẽ thấy miêu tả về tình hình lịch sử vào thế kỷ VIII tCN: bối cảnh là một quốc gia bị chia cắt thành hai, với vương quốc Ítraen ở miền Bắc, và vương quốc Giuđa ở miền Nam nơi mà Isaia đã sinh sống. Họ cũng sẽ đọc thấy những vấn đề chính trị nghiêm trọng vào thời đó, chẳng hạn như cuộc xâm lược của quân đội Átsua.

LỊCH SỬ ĐẦY NHỮNG KẼ HỞ

Khi đọc tới chương 40, độc giả có vẻ cảm thấy hơi bối rối. Nếu biết một chút về lịch sử, họ sẽ thấy mình đột nhiên bị lạc vào một thế giới khác. Isaia chẳng còn ở Giêrusalem nữa, nhưng đang rao giảng ở Babylon. Và lúc này đã là 200 năm sau. Những sự kiện vừa được đề cập không thuộc thế kỷ VIII tCN nữa, nhưng thuộc thế kỷ VI tCN. Vua Kyrô nước Ba Tư, người đã sống vào năm 550 tCN, xuất hiện tới hai lần (x. Is 44,28; 45,1). Độc giả sẽ nhận ra rằng dân Do Thái không còn ở Giêrusalem, nhưng đã bị lưu đày ở Babylon kể từ năm 587 tCN. Ngôn sứ Isaia thúc giục họ thoát khỏi cảnh nô lệ và trở về Giêrusalem (x. Is 48,20; 52,11). Đền thờ và thành Giêrusalem đã bị phá hủy; chẳng còn vị vua nào nữa; còn dân chúng thì đang chìm sâu trong tuyệt vọng và sầu khổ (x. Is 49,14).

Khi đọc tới chương 56, độc giả sẽ ngạc nhiên lần nữa. Isaia đang ở Giêrusalem và khoảng thời gian gần năm 500 tCN. Người Do Thái đã hồi hương trở về từ cuộc lưu đày ở Babylon, và họ đã xây dựng lại Đền thờ và đang tái thiết thành Giêrusalem.

NHỮNG VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ THẦN HỌC

Nếu độc giả biết một chút về các cổ ngữ, họ cũng sẽ nhận thấy sự khác biệt trong tiếng Hipri của sách Isaia này.

Chương 1 tới chương 39 được viết một cách khá u ám, ngắn gọn, và nhịp nhàng. Nhưng từ chương 40 trở đi, Isaia chọn lối viết cường điệu, tha thiết và thậm chí trìu mến hơn, với những lần lặp lại thường xuyên và liệt kê rất chi tiết. Trước đây, Isaia không sử dụng phong cách này. Ở chương 56, Isaia chuyển đổi sang một phong cách khác. Mức độ thi ca và hùng biện giảm dần.

Ngoài những bất thường về lịch sử và văn chương, chúng ta còn có thể chỉ ra một nhóm bất thường thứ ba, đó là các tư tưởng thần học.

Từ chương 1 đến chương 39, đang khi giới thiệu Giavê là Thiên Chúa của Ítraen, thì Isaia cũng dạy rằng có những vị thần khác cũng được thờ phượng ở các làng lân cận. Ngôn sứ Isaia đã mong đợi sự xuất hiện của một Đấng Mêsia vinh quang, Đấng ấy sẽ đến từ dòng tộc Đavít và sẽ cứu vớt dân chúng. Ông chưa bao giờ nói về một Thiên Chúa là Đấng Tạo hóa. Cách thức ông hiểu biết về lịch sử thì chưa được phát triển cách toàn diện.

Những lời giảng dạy của Isaia đột nhiên thay đổi ở chương 40. Ông nói về một vị Thiên Chúa duy nhất và gọi Ngài là Giavê. Còn những thần khác thì chẳng là gì cả (x. Is 41,21-24; 44,6-8). Lần đầu tiên, ông xác quyết một vị Thiên Chúa là Đấng tạo thành vũ trụ (x. Is 40,28; 44,24; 45,12). Ông cũng nói về Thiên Chúa là Đấng cứu chuộc của Ítraen, chính Người sẽ đưa dân ra khỏi cảnh nô lệ Ai Cập (x. Is 41,14; 43,14; 44,6).

Ở chương 56, Isaia một lần nữa thay đổi nhãn quan thần học của mình. Lần này, ông đi sâu hơn vào việc thờ phượng, lễ nghi và Đền thờ. Ông không còn đề cập đến Đấng Mêsia nữa. Những nhân vật chính trong các bài giảng của ông là các vị thượng tế của Giêrusalem, điều mà trước đây ông chưa từng đề cập đến.

BA LỜI GIẢI THÍCH DỄ HIỂU

Isaia đã xoay xở như thế nào để sống được 300 năm và thuật lại tất cả những sự kiện này? Chúng ta giải thích thế nào về sự thay đổi quá nhiều các thể loại văn chương, cũng như sự khác biệt trong các ý tưởng của ông? 

Trong nhiều thế kỷ, có lời giải thích cho rằng Isaia đã sống một cuộc đời bình thường khoảng chừng 60 đến 70 tuổi, nhưng có thể ông đã viết những sấm ngôn về các sự kiện xảy ra sau đó khoảng 300 năm hoặc xa hơn nữa nhờ được ơn linh hứng. Những thay đổi về ngôn ngữ học cho thấy rằng, Isaia là một người rất thành thạo và điêu luyện về mọi thể thức văn chương, cũng như có thể viết theo bất kỳ thể loại nào. Với sự thay đổi về các ý tưởng thần học, một số người sẽ giải thích rằng Thiên Chúa đã mặc khải các ý tưởng này cho ông vào những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời ông.

Những lời giải thích như vậy không thuyết phục hết mọi người. Hơn nữa, các sấm ngôn của Isaia cuối cùng cũng được ứng nghiệm với độ chính xác cao đến mức chúng vẫn còn là một mầu nhiệm.

ISAIA ĐỆ NHẤT

Năm 1788, một nhà chú giải Kinh Thánh người Đức là Johann C. Doderlein, đã tạo ra một cuộc cách mạng trong các nghiên cứu về Isaia. Trong một cuốn sách xuất bản, ông đã quả quyết rằng chỉ có các chương từ 1 đến 39 là thuộc về ngôn sứ Isaia. Theo Doderlein, các chương từ 40 đến 66 được sáng tác vài thế kỷ sau đó bởi một thi sĩ ẩn danh sống trong thời kỳ lưu đày Babylon, gần năm 540 tCN. Sau đó, một số người đã biên soạn và thêm chúng vào như những chương sách, như thể chúng là của Isaia.

Doderlein đã đặt tên cho vị ngôn sứ thứ hai này là Isaia Đệ nhị (Deutero Isaiah) (từ “deuteros” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “thứ hai”).

Một thế kỷ sau, năm 1892, học giả người Đức khác là Bernard Duhm, đã kết luận rằng các chương từ 56 đến 66 thuộc về một ngôn sứ thứ ba, khác với hai vị ngôn sứ trước. Vị này hẳn đã sống và rao giảng trong những thập niên sau đó, khi dân Do Thái đã trở về sau cuộc lưu đày ở Babylon. Ông gọi vị ngôn sứ này là Isaia Đệ tam (Trito Isaiah) (từ “tritos” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “thứ ba”).

KHÔNG THÔNG QUA MỘT SẮC LỆNH

Những kết luận mới này đã gây nên một sự chấn động trong giới chuyên gia Kinh Thánh. Các học giả truyền thống đã bác bỏ chúng, xem đó là lạc giáo khi tước bỏ quyền tác giả của Isaia về một phần quan trọng của tập sách mang tên ông, hệ quả là làm dấy lên sự nghi ngờ về một truyền thống gần 2500 năm.

Cuộc tranh luận đã trở nên gay gắt giữa nhóm bảo vệ các giáo thuyết mới và nhóm bảo thủ. Nó đã đi đến mức độ cực đoan đến nỗi Giáo hội Công giáo phải can thiệp để cố gắng chấm dứt. Ngày 28 tháng 6 năm 1908, Ủy ban Giáo hoàng về Kinh Thánh đã thông qua một sắc lệnh với ngôn từ mạnh mẽ ủng hộ nhóm bảo thủ, nhằm quả quyết rằng Isaia là tác giả đã tự tay viết tất cả 66 chương cuốn sách mang tên ông.

Sắc lệnh này lập luận rằng các luận điểm mới thiếu chứng cứ để cho phép phá vỡ điều mà truyền thống đã tin nhận. Sắc lệnh cũng khẳng định rằng Isaia có khả năng đã biết đến cuộc lưu đày ở Babylon, cũng như những sự kiện khác đã được đề cập trong cuốn sách mang tên ông nhiều thế kỷ trước khi chúng xảy ra.

Tuy nhiên, sắc lệnh của Ủy ban Kinh Thánh vẫn không thể làm dịu cuộc tranh luận.

KHÔNG LÀM MẤT UY TÍN CỦA VỊ NGÔN SỨ

Theo thời gian, vấn đề trên được nghiên cứu sâu hơn, cảm xúc đã dịu lại, và tâm trí bắt đầu nhìn nhận sự việc một cách công bằng hơn. Cuối cùng, bên cạnh việc không phủ nhận rằng một người được Thiên Chúa soi sáng có thể tự truyền tải chính mình đúng thời để làm chứng về những sự kiện tương lai, thì người ta cũng hiểu rằng dữ liệu văn chương và lịch sử của cuốn sách này đã chỉ ra sự tồn tại của nhiều [hơn một] tác giả đằng sau các trang sách đó. Do đó, việc phản đối các phát hiện mới cuối cùng cũng đã lắng xuống. Ngày nay, hầu hết các nhà Kinh Thánh đều đồng thuận ba phần của Sách Isaia.

Một thay đổi nữa đã diễn ra vào những năm gần đây. Thay vì giả thuyết Isaia Đệ tam mà B. Duhm đã giới thiệu, thì năm 1895, chuyên viên Kinh Thánh J. Cheyne đã xác lập rằng các chương từ 56 đến 66 không chỉ thuộc về một mà có tới vài tác giả, những lời giảng dạy của họ đã được thu thập lại và được biên soạn trong cùng một cuốn sách.

Tóm lại, các chương từ 1 đến 39 của Sách Isaia thực sự và quả thật thuộc về một ngôn sứ. Các chương từ 40 đến 55 là của một tác giả khác vào thế kỷ VI, vị mà ngày nay chúng ta gọi là Isaia Đệ nhị. Và các chương từ 56 đến 66 là một tập hợp các sấm ngôn của nhiều tác giả khác nhau sống vào thế kỷ VI và V tCN.

THIÊN THẦN CẦM CỤC THAN ĐỎ BỪNG

Nhà rao giảng Isaia là ai, mà danh tiếng của ông cuốn hút rất nhiều vị ngôn sứ ẩn danh đã cải trang và ẩn mình dưới tên tuổi của ông?

Isaia sinh tại Giêrusalem, khoảng năm 760 tCN. Lúc ông được 20 tuổi, ông đã trải qua một kinh nghiệm đáng nhớ khi đang cầu nguyện trong Đền thờ. Mặt đất bắt đầu rung chuyển và khói nghi ngút trong Đền thờ bốc lên. Lúc ấy, Thiên Chúa xuất hiện trong vinh quang với tất cả vẻ uy nghi tráng lệ, ngự trên ngai, và các thiên thần (seraphim) hầu cận xung quanh ngợi khen và chúc tụng Người.

Isaia đã kinh ngạc. Ông đã diện kiến Thiên Chúa! Ông, một tội nhân, đang diện kiến Thiên Chúa! Ông sắp sửa phải chết! Sau đó, một trong các thiên thần bay đến ông, dùng một cục than đang cháy bùng chạm vào đôi môi của ông, và phán: “Lỗi lầm của ngươi đã được xóa bỏ và tội lỗi của ngươi đã được tha thứ.”

 Lập tức sau đó, tiếng nói của Thiên Chúa vang dội trong Đền thờ: “Ta sẽ sai ai đến để công bố Lời của Ta?” Isaia đáng thương đầy kính sợ, nhưng cảm thấy có một sức mạnh đến nỗi thôi thúc ông trả lời: “Này con đây. Hãy sai con đi.” Sự kiện này đã xảy ra vào năm 740 tCN.

NGAY CẢ CÁC PHỤ NỮ CŨNG KHÔNG THOÁT KHỎI [LỜI CHỈ TRÍCH]

Trải nghiệm đó đã thay đổi Isaia luôn mãi. Từ đó trở đi, ông đã trở thành một nhà rao giảng không chút sợ hãi, ông đi khắp thành Giêrusalem và các vùng phụ cận.

Mục tiêu ban đầu của Isaia là làm cho các nhà lãnh đạo dân chúng hiểu rằng Thiên Chúa không muốn bạo lực, hay áp bức, hay giàu có, hay phung phí quá mức gây tổn hại đến những người kém may mắn. Vì vậy, những bài giảng đầu tiên của ông nhằm chống lại sự bất công xã hội, sự độc đoán của các thẩm phán, sự tham nhũng của những kẻ cầm quyền, sự ham lợi của các địa chủ, và sự áp bức của các thủ lãnh (x. Is 1,21-28).

Isaia cũng nhận thấy rằng, dân chúng đã che giấu các tội lỗi của mình dưới lớp vỏ đạo đức giả. Ông đã chỉ trích việc thực hành tôn giáo như vậy: “Ngần ấy hy lễ của các ngươi, đối với Ta, nào nghĩa lý gì? Lễ toàn thiêu chiên cừu, mỡ bê mập, ta đã ngấy. Máu bò, máu chiên dê, Ta chẳng thèm… Ta ghê tởm khói hương… Ta chán ghét những ngày đầu tháng, những đại lễ của các ngươi; những thứ đó đã trở thành gánh nặng cho Ta, Ta không chịu nổi nữa. Khi các ngươi dang tay cầu nguyện, Ta bịt mắt không nhìn; các ngươi có đọc kinh cho nhiều, Ta cũng chẳng thèm nghe. Vì tay các ngươi đầy những máu” (Is 1,10-15).

Đồng thời, ông cũng viết những lời chỉ trích rất nặng về các phụ nữ thượng lưu trong cộng đồng Do Thái: “Vì các con gái Xion kiêu kỳ, chúng vừa đi vừa vênh mặt, liếc mắt, chúng bước đi nhún nhảy, khua kiềng đeo chân… Đức Chúa sẽ lột trần… [lấy đi đồ trang sức:] hình mặt trời và hình trăng khuyết… dây thắt lưng, lọ nước hoa và bùa hộ mệnh, nhẫn và khuyên mũi, áo ngày lễ, áo khoác, áo choàng, túi cầm tay…” (Is 3,16-24).

MỘT ĐỨA TRẺ MANG DẤU CHỈ

Năm 736 tCN, vua Giôtham của Giêrusalem băng hà thì thái tử Akhát đã lên ngôi kế vị cha. Liền sau đó, vua Akhát đã nhận được tin cho hay rằng, các vua thuộc các thành lân cận đã quyết định liên minh lại để xâm lược lãnh thổ của ông. Được cảnh báo, Akhát quyết định cầu cứu sự viện trợ từ dân hung dữ Átsua. Thế nhưng, Thiên Chúa đã sai Isaia đến để nói với vua: “Đừng sợ. Ta sẽ giúp ngươi. Đừng cầu cứu dân Átsua bởi vì sau này chúng sẽ trở mặt mà chống lại ngươi. Hãy phó thác vào Ta và Ta sẽ che chở ngươi khỏi các thế lực thù địch.” Tuy nhiên, vua Akhát đã quá hoảng sợ để tin tưởng vào Người.

Isaia đã nài ép: “Hãy xin một dấu từ Giavê, Thiên Chúa của ngươi, Ngài sẽ ban cho.” Vua Akhát vẫn từ chối. Tức giận, nhưng dù sao đi nữa Isaia vẫn cho vua một dấu chỉ: “Vợ ngươi mang thai và sẽ sinh hạ một con trẻ. Thiên Chúa sẽ tiêu diệt các vua mà làm ngươi khiếp sợ” (x. Is 7,1-16).

Isaia biết rằng ông đã cầu xin điều không thể. Ông muốn vua trị vì dựa trên lòng thành tín và tin tưởng rằng, sự chào đời của con trẻ không nơi nương tựa là một dấu chỉ đến từ Thiên Chúa. Thật vậy, dấu này quá nhỏ để xua tan nỗi sợ của vua.

Do đó, vua vẫn không lắng nghe Isaia. Vua Akhát đã triệu mời dân Átsua nhằm hỗ trợ chống lại các thế lực thù địch. Thế nhưng, vua đã sớm trả cái giá thật đắt về điều đó, khi dân Átsua chiếm đóng một phần lãnh thổ của vua và đánh thuế rất cao trên dân. Bởi vì vua đã chẳng lưu tâm gì đến Isaia, nên đất nước của vua đã rơi vào tình cảnh hoang tàn như vậy.

VỊ NGÔN SỨ CỞI BỎ ÁO QUẦN VÀ GIÀY DÉP

Trong những năm tháng tiếp theo, Isaia vẫn tiếp tục rao giảng giữa cảnh áp bức và những cảm giác tuyệt vọng của dân chúng dưới ách thống trị tàn bạo của người Átsua. Dân chúng phải từ bỏ sự giàu sang-thịnh vượng, các nông sản từ đồng ruộng, và các gia súc tốt nhất của mình như một phần trong các nghĩa vụ hàng tháng mà họ phải nộp cho các thủ lãnh độc tài. Họ đã nóng lòng chờ đợi ngày họ sẽ được giải thoát khỏi những kẻ đàn áp ấy.

Vua Akhát băng hà năm 716 tCN, và Thái tử Khítkigia đã nối ngôi. Chỉ mới 18 tuổi, vị vua trẻ tuổi này đã thao thức giành lại độc lập chính trị cho đất nước mình và mong đợi thực hiện được điều đó ngay khi có cơ hội đầu tiên.

Năm 713 tCN, dân Philitinh thuộc thành nhỏ Átđốt đã bắt đầu nổi loạn chống lại người Átsua. Họ đã được thuyết phục rằng, Ai Cập - một cường quốc rộng lớn - sẽ đến để trợ giúp họ. Vua Khítkigia suy nghĩ: Điều tốt nhất nên làm là gì? Vua có nên cùng với họ tham gia vào trận chiến hay không? Cám dỗ này rất mạnh đối với vị thủ lãnh trẻ. Vì vậy, vua đã lên kế hoạch để tham chiến cùng họ, nghĩ rằng đây chính là thời điểm chín mùi để đánh tan ách thống trị của quân Átsua.

Tuy nhiên, Isaia lại có một cái nhìn khác. Ông tin rằng cuộc khởi nghĩa sẽ để lại những hậu quả rất nghiêm trọng. Ông đối diện với một tình thế tiến thoái lưỡng nan. Và ông sẽ giãi bày điều này với vua Khítkigia như thế nào? Ông sẽ truyền đạt thông điệp này đủ mạnh cỡ nào để đủ sức thuyết phục vua? Ngay lập tức, Isaia bắt gặp một ý tưởng. Ông cởi sạch đồ trên người và trần truồng đi ngoài đường, đến các công trường và thành thị, nơi phố chợ và Đền thờ.

Người dân nghĩ ông đã bị điên. Họ chế giễu và nhạo cười ông, cũng như hỏi ông tại sao lại trần truồng rảo quanh khắp nơi như vậy. Isaia đã tuyên bố: “Trần truồng và đi chân đất […] Thì cũng vậy, vua Átsua sẽ dẫn những kẻ nổi loạn chống lại ông mà đi tù đày” (Is 20,1-6).

Isaia đã đi lại trần truồng trong khoảng hai năm cho tới khi vua Khítkigia để ý lưu tâm đến sứ điệp của ông và quyết định thôi tham gia vào cuộc nổi loạn. Năm 711 tCN, tin tức đã đến đất nước rằng vua Átsua đã xâm chiếm thành Átđốt, đàn áp các cuộc nổi loạn và bắt họ đi tù đày. Thật thế, Ai Cập chưa bao giờ xuất hiện trong trận chiến.

Nhờ tài trí nhạy bén của Isaia, mà Vương quốc Giuđa đã được cứu nguy.

THẬM CHÍ KHÔNG BẰNG MỘT LƯỠI CƯA

Những năm cuối đời, Isaia đã trải qua nhiều lần thử thách. Năm 705 tCN, vua Khítkigia đã quyết định nổi dậy chống lại quân Átsua bất chấp những lời cầu xin của Isaia. Xankhêríp (Sennacherib), vua Átsua, không cần chờ cho đến lúc cuộc nổi loạn bùng nổ. Năm 701 tCN, ông xâm chiếm Giuđa, chinh phục 46 thành và bao vây Giêrusalem. Khítkigia đã quá muộn để nhận thấy rằng mình đã sai lầm.

Khi thành Giêrusalem sắp sửa đầu hàng, thì Xankhêríp đã phải vội vàng trở về nước, và vì thế mới thoát khỏi cuộc vây hãm. Một lần nữa, Khítkigia đã được cứu nguy một cách nhiệm mầu.

Vua Do Thái lẽ ra phải bình tĩnh và học hỏi từ diễn biến của các sự kiện để có lợi cho mình. Thay vào đó, vua đã tổ chức những cuộc nổi loạn chính trị mới, lần này phải trông chờ vào sự ủng hộ của toàn dân. Isaia - lúc này đã cao niên - cảm thấy thất vọng với sự cứng lòng của dân và nghĩ rằng tốt nhất là nên rút lui khỏi đời sống công khai.

Chính trong tình trạng cô đơn vào những năm cuối đời mà Thiên Chúa đã biểu lộ cho Isaia thấy sự xuất hiện của Đấng Mêsia trong tương lai, Đấng ấy sẽ được đầy tràn Chúa Thánh Thần (x. Is 11,1-9), Đấng ấy sẽ lãnh đạo dân theo lẽ công minh và chính trực (x. Is 32,1-5), và Đấng ấy sẽ đem lại hòa bình cho muôn dân nước (x. Is 2,2-4). Cho dẫu mọi nỗi thất vọng mà Isaia đã trải qua, nhưng các sấm ngôn cuối đời của ông vẫn đầy tràn hy vọng.

Chúng ta chẳng biết Isaia đã thật sự qua đời như thế nào. Một truyền thuyết cổ xưa kể rằng, ông phải lẫn trốn khỏi sự truy lùng tìm giết của vua Mơnase, vốn đã tuyên bố trao thưởng cho ai bắt được ông. Isaia đã phải trốn núp bên trong một thân cây rỗng. Vua Mơnase đã ra lệnh cho các thuộc hạ rằng, hãy mang thân cây đến một xưởng cưa gần đó và xẻ làm đôi trong khi Isaia vẫn còn ẩn nấu trong đó.

Một cái kết thật đau buồn như thế đối với một người đã dành trọn cả đời chỉ để rao giảng về Thiên Chúa cho dân chúng, cho thành thị và cho nhà vua. Sau khi Isaia qua đời, nhiều vị ngôn sứ xuất hiện và mượn danh của ông. Cuốn sách mang tên ông, ngày càng mở rộng với các sấm ngôn ẩn danh được gán cho ông, là một minh chứng rõ ràng về sự mến mộ mà vị ngôn sứ vĩ đại của Thiên Chúa này đã có được.