×

Giỏ hàng

1857   2025-05-02 12:18:26

TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ CON NGƯỜI XÉT NHƯ MỘT NHÂN VỊ

Phêrô Nguyễn Thành Tường - Khoá XXIII, ĐCV Sao Biển Nha Trang

Hướng dẫn tiểu luận: L.m Phêrô Nguyễn Xuân Phong

Tiểu luận tốt nghiệp triết học 2024 - 2025

 

Khoa học công nghệ đã có một lịch sử lâu dài. Ngay từ xa xưa, những triết gia tiền Socrates còn được biết đến như là những triết gia khoa học. Đến thời Aristote (384 - 322 TCN), khoa học được tái định hình có hệ thống, có phương pháp. Stuart J. Russell và Peter Norvig trong cuốn Artificial Intelligence: A Modern Approach đã nhận định: Aristote là người đặt nền móng cho sự phát triển của khoa học, đặc biệt là khoa học máy tính qua công trình luận lý học.[1] Cho đến nay, lĩnh vực này đã không ngừng phát triển, đỉnh cao ấy chính là sự ra đời của Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI). Trí tuệ nhân tạo không chỉ đơn thuần là cột mốc đánh dấu sự phát triển của công nghệ ngày nay, nhưng còn là cuộc cách mạng đối với con người.[2] Do đó, Yuval Noah Harari (sinh năm 1976) đã khẳng định: “Trí tuệ nhân tạo là một chủ đề mà mọi người phải quan tâm. Dù không phải ai cũng có thể trở thành chuyên gia AI, nhưng chúng ta cần nhớ rằng AI là thứ công nghệ đầu tiên trong lịch sử có thể tự quyết và tự kiến tạo ý tưởng mới.”[3]

Thật vậy, sự phát triển cực kỳ nhanh chóng của Trí tuệ nhân tạo trong những năm gần đây đã cho thấy một mối quan tâm hết sức đặc biệt mà thế giới dành cho khoa học. Điều đó là tốt nhưng nó sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nếu chỉ vì sự phát triển ấy mà thế giới lãng quên đi vai trò và vị trí của con người xét như một nhân vị. Từ các ưu tư trên, đề tài của tiểu luận này nhằm trình bày Trí tuệ nhân tạo trong tương quan với con người xét như một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan xã hội.

Vì thế, bài tiểu luận sẽ được triển khai nội dung và suy tư theo ba phần sau (ngoại trừ phần Dẫn nhập và Kết luận):[4]

  1. Sự phát triển của Trí tuệ nhân tạo.
  2. Tác động của Trí tuệ nhân tạo đến con người xét như là một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan xã hội.
  3. Một vài nhận định và áp dụng, cách đặc biệt cho công việc mục vụ dưới góc nhìn của mục tử tương lai.

1. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

1.1 Trí tuệ nhân tạo là gì?

1.1.1 Định nghĩa và cách thức hoạt động

Có lẽ ai trong chúng ta cũng đã nhiều lần nghe qua thuật ngữ Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence - AI). Vậy Trí tuệ nhân tạo là gì?

Trong cuốn Artificial Intelligence: A Modern Approach, tác giả Stuart J. Russell và Peter Norvig tổng hợp được nhiều định nghĩa về Trí tuệ nhân tạo như: “Trí tuệ nhân tạo là nỗ lực thú vị nhằm khiến suy nghĩ của máy tính có thêm nhận thức, tư duy”; “Trí tuệ nhân tạo là những hành động của máy móc gắn liền với tư duy của con người, ví dụ như ra quyết định hay giải quyết vấn đề”; “Trí tuệ nhân tạo là nghiên cứu về năng lực trí tuệ vận hành vào các mô hình tính toán”; “Trí tuệ nhân tạo là nghiên cứu để máy tính có khả năng nhận thức, nhận định và hành động”; “Trí tuệ nhân tạo là nghệ thuật tạo ra các cỗ máy có thể thực hiện những chức năng yêu cầu trí tuệ khi thực hiện bởi con người.”[5] Một cách khái quát, theo nhận định của A. M. Turing (1912-1954): Trí tuệ nhân tạo là một nhánh của khoa học liên quan đến việc dạy cho máy móc biết suy nghĩ và hành động như con người.[6]  Tuy vậy, để định nghĩa chính xác Trí tuệ nhân tạo là gì thì “cho đến nay, chưa có một định nghĩa thống nhất về Trí tuệ nhân tạo trong thế giới khoa học và công nghệ.”[7]

Tuy nhiên, cách đơn giản và dễ hiểu nhất đối với mặt bằng chung của mọi người vẫn là cách phân tích từ ngữ, bởi lẽ người ta thường nói: cái tên nói lên bản chất. Vậy thuật ngữ Trí tuệ nhân tạo là gì? Trí tuệ nhân tạo là một cụm từ tiếng Việt được dịch từ các ngoại ngữ khác, chẳng hạn tiếng Pháp: L’Intelligence Artificielle (IA); tiếng Anh: Artificial Intelligence (AI). Trong đó, ‘Artificial’ là ‘nhân tạo’ và ‘Intelligence’ là ‘trí tuệ’. Vậy ta có cụm từ ‘Trí tuệ nhân tạo’, tức là những thứ nhân tạo có thể thực hiện được công việc mang tính trí tuệ. Đặt điều này vào trong bối cảnh hiện nay, ta có thể hiểu: AI là một kỹ thuật cho phép máy tính thực hiện công việc mang tính trí tuệ.

1.1.1.1 Phân loại

Trí tuệ nhân tạo gồm hai loại là AI yếu và AI mạnh. Tuy nhiên, cho đến giờ vẫn chưa có sự phân biệt chặt chẽ giữa chúng. Một cách khái quát ta có thể hiểu:

- AI yếu (weak AI):[8] chỉ có thể mô phỏng một số khía cạnh của trí năng con người, tức là một phần có giới hạn của lý trí, mà không bao giờ đạt được sự hiểu biết thực sự (như con người). Nó còn được gọi với tên là AI hẹp (Artificial Narrow Intelligence - ANI), tập trung vào một nhiệm vụ hẹp. Hiện nay có một số AI yếu như: ChatGPT, AlphaGo, AI ứng dụng trong các mạng xã hội (như Facebook, Tiktok), các trợ lý ảo trên smartphone, xe tự lái, robot làm việc trong những lĩnh vực cụ thể như y khoa, quân sự, v.v.

- AI mạnh (strong AI):[9] là những máy móc có thể phát triển trí năng tương đương hoặc vượt trội hơn con người. Nói cách khác, AI mạnh tìm cách tạo ra những con người nhân tạo, tức là những cỗ máy có tâm trí y như tâm trí của con người, bao gồm cả ý thức. AI mạnh còn được gọi là AI rộng (Artificial General Intelligence - AGI).

1.1.1.2 Nguyên lý hoạt động của AI

AI hoạt động bằng cách kết hợp các bộ dữ liệu lớn (big data) với các thuật toán (Algorithm), được xử lý lặp đi lặp lại một cách thông minh để học từ các mẫu (patterns) và tính năng (feature) trong dữ liệu mà chúng phân tích. Mỗi khi hệ thống AI chạy một vòng xử lý dữ liệu, nó sẽ kiểm tra và đo lường hiệu suất của chính nó. Từ đó, phát triển thêm kiến ​​thức chuyên sâu.

Có thể thấy, trong quá trình xây dựng một AI, dữ liệu để đào tạo (train) là vô cùng quan trọng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu suất của AI. Do đó, ở vài thập kỷ trước, AI chưa thực sự phát triển cũng một phần bị giới hạn bởi nguyên nhân này. Tuy nhiên ngày nay nhờ sự phát triển của khoa học máy tính, nguồn dữ liệu để đào tạo cho AI đã trở nên vô cùng phong phú. Từ đó, nó trở thành một trong những động lực chính giúp AI có thể phát triển mạnh mẽ như hiện nay. Okamoto Yuichiro (sinh năm 1954) đã nói:

Không giống những hình thức đã được biết đến từ trước tới nay, gần đây, Trí tuệ nhân tạo dường như bắt đầu có khả năng tự học từ những tình huống cự thể có sự thay đổi một cách đa dạng. Do đó, nó được gọi với thuật ngữ “machine learning” (học máy) hay “deep learning” (học sâu), điều này đã cải thiện vượt bậc khả năng của Trí tuệ nhân tạo. Thứ được sử dụng cho việc “tự học” của Trí tuệ nhân tạo, với vai trò nguồn thông tin, không gì khác chính là “Big Data”. “Dữ liệu lớn” được thu thập nhờ internet, trở thành nguyên liệu đầu vào cho quá trình “deep learning” của Trí tuệ nhân tạo. Chính nhờ lượng thông tin rất lớn, Trí tuệ nhân tạo hoàn toàn có thể phản ứng một cách thích hợp với những thay đổi đột ngột và các tình huống ngoại lệ.[10]

Do đó, những AI hiện nay đã khác xa một trời một vực so với “tổ tiên” của chúng.[11] Hơn nữa, chúng cũng ngày càng trở nên độc lập hơn nhờ hai kỹ thuật: Học Máy (Machine Learning - ML)[12] và Học Sâu (Deep Learning - DL).[13] Nguyên tắc cơ bản của hai kỹ thuật này là các thuật toán có thể tự dạy cho mình những điều mới bằng cách tương tác với thế giới, giống như con người, thay vì chỉ làm theo hướng dẫn của người tạo ra nó ban đầu, từ đó tạo nên một AI hoàn chỉnh.[14] Chẳng hạn, AI chơi cờ ngày nay không còn được dạy gì ngoại trừ các quy tắc cơ bản của trò chơi. Nó tự học mọi thứ khác, bằng cách phân tích cơ sở dữ liệu của các trận cờ trước đó hoặc bằng cách tự chơi với chính nó và tự học hỏi kinh nghiệm.

1.1.2 Lược sử hình thành Trí tuệ nhân tạo

- Mặc dù Trí tuệ nhân tạo là một lĩnh vực nghiên cứu độc lập và tương đối mới, nhưng nguồn gốc của nó thì đã có từ lâu đời. Theo nhiều tài liệu thì cách đây khoảng 2300 năm, “gốc rễ” của AI đã bắt đầu xuất hiện khi triết gia Aristote (384 – 322 TCN) phát minh ra khái niệm Tam đoạn luận, một hệ thống suy luận chính thức đầu tiên, cho phép người ta đưa ra kết luận một cách máy móc từ các tiền đề ban đầu. [15]

- Đến thời Trung cổ, những đóng góp lớn về ngôn ngữ logic của một số triết gia như: Boethius (khoảng 480-524) – người đã hệ thống hóa logic học hình thức, hoàn thiện hình vuông logic và đưa ra một số quy tắc của logic mệnh đề; P. Abelard (1079-1142) - người đã xây dựng lại logic Aristote, phân biệt các suy luận đúng về hình thức và đúng về nội dung; Sau nữa là W. Occam (1285-1349) - người dành một sự quan tâm lớn đến logic hình thái, xây dựng học thuyết về siêu ngôn ngữ (metalanguage), nghiên cứu toàn diện về tam đoạn luận đơn của Aristote, phân định các kiểu đúng và không đúng.[16]

- Sang thời Cận đại, ngôn ngữ luận lý tiếp tục được hoàn thiện hơn nhờ những nỗ lực của nhiều triết gia và khoa học gia. Nổi bật nhất là đóng góp của René Descartes (1596–1650), người cho rằng vì tinh thần và vật chất không có cùng bản chất nên sự biểu thị cũng không thể cùng bản chất như cái mà chúng biểu thị.[17] Ý tưởng này đã chấm dứt dòng quan niệm truyền thống coi nhận thức như một hành vi chung của chủ thể cảm nhận và cái được cảm nhận. Đồng thời, nó cũng mang lại cho lĩnh vực ngôn ngữ học nói chung, logic học nói riêng một thế đứng độc lập tách biệt với tư tưởng, để từ đó con người có thể nghiên cứu ngôn ngữ như một môn khoa học. “Theo cách nói hiện tại thì với cuộc cách mạng về ý tưởng, tinh thần không còn vận hành theo cách loại suy; và sự biểu thị [tức là ngôn ngữ] hoàn toàn trở thành kỹ thuật số, nghĩa là có thể mã hóa.”[18] Thành quả của bước ngoặt này đã đặt nền móng cho sự ra đời và phát triển của AI về khía cạnh xử lý ngôn ngữ tự nhiên (Natural Language Processing). Ngoài ra, về mặt kỹ thuật, giai đoạn này cũng ghi dấu sự bắt đầu thành hình của những chiếc máy tính sơ khai.[19]

- Đến thế kỷ 19, nhà toán học logic học George Boole (1815 - 1864) đã kế thừa và phát triển thành công Đại số Boolean, đặt nền tảng cho sự xuất hiện của mạch máy tính.[20]

- Sau đó, đến những năm 1940 – 1950, máy tính điện toán ra đời. Lúc này, “[nó chỉ] là một cỗ máy điện tử cồng kềnh có thể thực hiện vài phép tính toán học, nhưng nó đã phát triển với tốc độ chóng mặt, thay đổi những diện mạo mới lạ và phát triển những khả năng đáng kinh ngạc.”[21] Đồng thời cũng trong giai đoạn này, song song với sự ra đời của máy tính điện toán đó là sự ra đời của Trí tuệ nhân tạo. Bước ngoặt này được đánh dấu bằng hai sự kiện lớn: một là ý tưởng về chiếc máy tính có khả năng suy nghĩ đến từ Alan Turing, người đề xuất phương pháp mang tên Kiểm tra Turing[22]; hai là việc xác định kết cấu hạ tầng cho cỗ máy có khả năng tính toán đến từ John Von Neumann (1903-1957). Cuối cùng, thuật ngữ “Trí tuệ nhân tạo” chính thức được khai sinh do John McCarthy (1927-2011) vào năm 1956. Thời đó, AI – thứ vừa được khai sinh, về cơ bản chỉ là tính toán, dựa trên lý luận logic và khả năng biết chơi cờ vua. Cho đến những năm gần đây, nhờ sự phát triển mạnh mẽ của bộ ba: năng lực tính toán[23], dữ liệu lớn (Big data)[24] và học sâu (Deep learning)[25], có thể nói AI đã thực sự chứng tỏ được khả năng của mình trong mọi lĩnh vực cuộc sống.

1.2 Hệ quả

“Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên mới – mà trong đó, một lần nữa, công nghệ sẽ biến đổi tri thức, sự khám phá, giao tiếp và suy nghĩ cá nhân của chúng ta.”[26] Trong kỷ nguyên này, AI chính là đại diện tiêu biểu cho một cuộc cách mạng mới.[27] Gọi là ‘cuộc cách mạng mới’ bởi lẽ kỷ nguyên AI không chỉ là về máy móc, về các hệ thống thông minh được kết nối. Phạm vi của nó rộng lớn hơn nhiều. Các làn sóng đột phá trong các lĩnh vực khác nhau xảy ra đồng thời, từ giải mã trình tự gen cho tới công nghệ nano, từ năng lượng tái tạo đến tính toán lượng tử, từ cuộc sống thường ngày cho đến khám phá vũ trụ, v.v. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này là sự dung hợp giữa các công nghệ trên và sự tác động của chúng lên các lĩnh vực vật lý, kỹ thuật số, sinh học, v.v khiến nó về cơ bản rất khác so với những cuộc cách mạng trước đó.[28]

Trước khi AI phát triển như hiện nay, theo Yuval Noah Harari: “Con người đã nhiều lần quả quyết rằng sẽ có một số điều nhất định mà máy tính mãi mãi không bao giờ có thể vươn tới được – đó có thể là chơi cờ, lái xe hoặc sáng tác thơ – nhưng “mãi mãi” hóa ra chỉ là một vài năm.”[29] Hiện tại, nhờ vào sự phát triển của khoa học điện toán mà năng lực xử lý của máy tính đã trở nên vô cùng mạnh mẽ. Đồng thời, “chúng ta [cũng] đang chứng kiến sự phát triển bùng nổ của những nghiên cứu về Trí tuệ nhân tạo dựa trên nền tảng Big Data.”[30] Do đó, khả năng của AI lúc này là rất phong phú, “bao gồm nhiều ảo vọng mà người phương Tây gọi là tham vọng Prometheus.”[31] Henry Kissinger (1923-2023) và một số tác giả cũng đưa ra nhận xét:

Trí tuệ nhân tạo là một phát minh của con người, phản chiếu các quy trình do con người thiết kế lên những cỗ máy do con người tạo ra. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, với quy mô và tốc độ đáng kinh ngạc, nó tạo ra những kết quả tiệm cận với những kết quả mà, cho đến nay, chỉ có thể đạt được thông qua lý trí con người. Đôi khi những kết quả mà nó tạo ra khiến chúng ta phải sửng sốt.[32]

Thật vậy, AI đã giúp nâng cao năng lực của con người rất nhiều. Không những thế, nó còn giúp con người giải quyết nhiều vấn đề phức tạp và mang lại nhiều lợi ích lớn lao cho xã hội. “Nhiều viễn cảnh nghe như khoa học giả tưởng hồi năm 2016 – như các thuật toán có thể tạo ra tác phẩm nghệ thuật, giả dạng thành con người, đưa ra những quyết định chính yếu trong cuộc sống về chúng ta, hay biết nhiều về chúng ta hơn chính chúng ta biết về bản thân – đã trở thành thực tế thường ngày vào năm 2024.”[33] Sự bùng nổ của Trí tuệ nhân tạo đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt các ứng dụng có khả năng tạo sinh, như tạo các đoạn văn bản (ChatGPT, DeepSeek, Gemini, Copilot), tạo ra hình ảnh (Midjourney), tạo video (RunwayML), tạo người ảo (Synthesia) và thậm chí là chỉnh sửa ảnh trong các phần mềm như Photoshop với Generative, v.v. Nổi bật trong số đó có thể kể đến là chatbot ChatGPT – một AI có thể tự tổng hợp kiến thức, cá nhân hóa công việc dựa trên nhu cầu và mục tiêu của từng người, hỗ trợ tìm kiếm nhanh, hiệu quả mà cách sử dụng lại đơn giản và tiết kiệm thời gian. Ngoài ra, AI cũng được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác, chẳng hạn như giao thông: AI điều khiển camera an ninh, điều khiển tín hiệu đèn để điều hành giao thông, trạm thu phí không dừng, xe tự hành, v.v; hay trong lĩnh vực y tế: AI có thể xử lý dữ liệu của bệnh nhân để đưa ra phác đồ điều trị, chẩn đoán hình ảnh hoặc thậm chí là phẫu thuật.

Những lợi ích thiết thực này đã góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống cho con người. “Một cách tiên nghiệm (a priori), dường như không có lý do gì để những sự phát triển này dừng lại. Chúng có mặt trong nhiều lĩnh vực, y tế, giao thông, hậu cần, giáo dục, an ninh, tư pháp.”[34] Vậy nên, AI đã, đang và sẽ tiếp tục đi sâu hơn nữa vào đời sống của mỗi người chúng ta.

Tuy nhiên, sự xâm nhập của AI vào nhiều lĩnh vực cuộc sống cũng đang đặt ra rất nhiều câu hỏi mang tính triết học về con người xét như một hữu thể nhân vị. Chúng ta không phủ nhận những lợi ích mà AI đã mang lại cho đời sống con người, nhưng chúng ta cũng không thể “nhắm mắt làm ngơ” trước những rủi ro mà AI có thể mang đến. Nói như Stephen Hawking (1942-2018): “Như một công cụ, AI có thể tăng cường trí thông minh hiện có của chúng ta để mở ra những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và xã hội. Tuy vậy, nó cũng sẽ mang đến nhiều nguy hiểm.”[35] Do đó, để có thể kiểm soát và sử dụng hiệu quả AI, chúng ta hãy cùng tìm hiểu về những tác động của AI đến con người xét như một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan xã hội.

 

2. TÁC ĐỘNG CỦA TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐẾN CON NGƯỜI XÉT NHƯ MỘT NHÂN VỊ

2.1 Thế nào là Nhân vị?

Nhân vị (Persona)[36] là một danh xưng dùng để chỉ những hữu thể có lý trí, ý chí tự do, chỉ tồn tại và luôn tồn tại trong mối tương quan thiết yếu với những gì khác với mình.[37]  Đây là yếu tố làm nên xã hội tính của con người. Con người chỉ là persona khi có tương quan, thông hiệp, đối thoại với các persona khác, “nghĩa là qua các mối tương quan liên bản vị (relations inter-personnelles) mà persona của tôi được phong phú hơn.”[38]

   Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, các triết gia đã đưa ra nhiều định nghĩa về con người xét như là một nhân vị. Từ xa xưa, Aristote (384 – 322 TCN) đã định nghĩa con người như là con vật có lý trí. Theo sau đó, nhiều triết gia cũng nhấn mạnh đến khía cạnh lý trí và ý chí tự do, chẳng hạn: Boethius (480 – 524) định nghĩa “ngôi vị là một bản thể cá thể với bản tính lý tính”;[39] Descartes (1596-1650) định nghĩa con người là tinh thần; Pascal (1623-1662) lại xem con người như cây sậy biết suy tư,[40] tức là nhân vị được tỏ lộ nơi cái trí tinh nhuệ (esprit de finesse); Emmanuel Kant (1724-1804) cho rằng con người là một chủ thể có lý trí nên phẩm giá con người dựa trên lý tính, tức là sự tự do chọn lựa của ý chí, chỉ những hữu thể có lý trí mới có thể khai triển các quy luật phổ quát và định hướng hành vi của mình sao cho phù hợp với các quy luật đó. Do đó, Kant khẳng định con người mang phẩm giá khác với các sự vật khác trong thế giới như: thú vật, thực vật, đất đá và các bất động sản. [41] Cách đặc biệt, một số triết gia khác lại nhấn mạnh đến khía cạnh tương quan, chẳng hạn: Gabriel Marcel (1889-1973) đề nghị hãy nhìn con người như một “huyền nhiệm” để ta có thể mở ra một tương quan đích thực với nhân vị, vì hành trình của một hữu thể người phải là hành trình dấn thân, nghĩa là đi vào cuộc phiêu lưu với những chủ thể khác.[42] Emmanuel Mounier (1905-1950) – một nhà nhân vị thuyết, trong tác phẩm Thuyết Nhân Vị định nghĩa: “Nhân vị là một hữu thể độc nhất, tự do, sáng tạo, có mối tương giao xã hội, liên kết cộng đồng, hướng đến yêu thương tha nhân, và hơn nữa, một đặc tính, nếu thiếu nó sẽ không còn là một nhân vị: hiệp thông với Thiên Chúa.”[43] Có thể nói, E. Mounier đặc biệt nhấn mạnh đến chiều kích tương quan của nhân vị: tương quan với chính mình, với người khác, với thế giới và với Siêu Việt. “Nhân vị chỉ tồn tại đối với các nhân vị khác, nó chỉ tự biết mình trong sự biết các nhân vị khác, chỉ thấy mình trong việc được các nhân vị khác biết đến.”[44] Hơn nữa, theo E. Mounier, kinh nghiệm đầu tiên về nhân vị là kinh nghiệm về một nhân vị thứ hai: “Cái các bạn [thou], cũng ngụ ý là cái chúng ta [we], có trước cái tôi [I] – hoặc ít nhất là đi kèm với tôi,”[45] tức là cái chúng ta, đến trước cái tôi, hoặc ít ra là xuất hiện cùng lúc. Tương tự, Martin Buber (1878-1965) đã nhận định: “Con người, một ngôi vị phải là người quan tâm đến người khác để hiểu và tôn trọng cái Tôi của họ: Tôi có nguồn gốc từ tương quan của tôi với Bạn.”[46] Với M. Buber, tương quan là sự biểu lộ cách thức hiện hữu của con người, vì “không có chủ thể I đứng một mình, nhưng phải đứng trong tương quan với Thou hoặc với It.”[47] Còn theo Emmanuel Lévinas (1906-1995), nhân vị là tương quan liên vị mà theo đó, toàn bộ trọng tâm (tức là cái tôi) được chuyển dịch sang Bạn (tức là cái khác).[48] Trong tác phẩm Totality and Infinity, ông nhận định: “Tương quan là điều quan trọng nhất, bởi tôi không thể tách mình ra khỏi người khác.”[49] Thêm vào đó, ông còn nhấn mạnh: “Tương quan thực sự là tương quan mặt đối mặt.”[50]

Cách đặc biệt, khi bàn về ý niệm nhân vị ta không thể nào không nhắc đến quan điểm của Kitô giáo. Bởi lẽ, trong lúc triết học Hy Lạp còn đang suy tư với tư tưởng phi ngôi vị thì Kitô giáo đã bất chợt giới thiệu khái niệm này.[51] Cho nên, nhân vị thực sự là một thành quả của suy tư Kitô giáo, “chính Kitô giáo đã đưa vào các cuộc hành trình mò mẫm ban đầu này một ý niệm quyết định về nhân vị.”[52] Có thể kể đến một số định nghĩa về nhân vị chẳng hạn theo Tertullian (khoảng 160-220): “Persona đơn giản chỉ là sự xuất hiện thực sự và riêng biệt của một cá thể (individuo), mà trong bản chất của nó mang tính lập hữu và lý trí”[53]; Thánh Augustino (354-430) trong Khảo luận về Chúa Ba Ngôi (De Trinitate) định nghĩa: “Persona là yếu tố đơn tính, cá vị tính (phân biệt với các hữu thể khác, đồng thời cũng liên đới với các hữu thể qua những tương quan).”[54] Thánh Toma Aquino (1225-1274) cũng phần nào đồng ý với Thánh Augustino khi định nghĩa persona là cá thể đặc biệt có một cách thức hiện hữu hoàn hảo như những bản thể có lý trí, làm chủ chính hành động, không bị thúc đẩy bởi những hữu thể khác mà tự mình hoạt động.[55] Từ đó Ngài cũng khẳng định thêm rằng chỉ duy con người mới là hình ảnh của Thiên Chúa. Vì lẽ con người khác với các thụ tạo vật thể khác, đó là ở khả năng hiểu biết và yêu mến.[56] Ngài cũng dẫn lại lời của Thánh Gioan Đamascô (676-749) trong phần dẫn nhập quyển thứ hai bộ Tổng luận Thần học: “Con người có trí tuệ và tự do để phán đoán và làm chủ chính mình.”[57]

Hơn thế nữa, theo Kinh Thánh, trình thuật về tạo dựng nơi sách Sáng Thế cho thấy Thiên Chúa dựng nên con người “theo hình ảnh và giống như Thiên Chúa” (imago Dei): “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ” (St 1,27). “Con người theo hình ảnh Thiên Chúa” tức là con người vượt lên trên các thụ tạo khác ở chỗ có lý trí và tự do.[58] Và “con người có nam có nữ” tức là nói đến một mối tương quan nhân bản. Con người sinh ra không phải để sống như một ốc đảo nhưng là để sống với người khác.[59]

Theo dòng lịch sử truyền thống và giáo huấn của Giáo Hội, ý niệm nhân vị cũng được trình bày trong các văn kiện. Chẳng hạn, nơi Công đồng Vaticanô II, tuy không dành riêng một văn kiện nào bàn về con người, nhưng Gaudium et spes - Hiến chế mục vụ về Giáo Hội trong thế giới ngày nay, cách riêng trong phần đầu, cung cấp cho chúng ta một tổng hợp quý báu về nhân luận. Văn kiện đã hé mở hai chiều kích của con người: một đàng con người mang trong mình một “hạt giống thần linh” mở rộng đến siêu việt; đàng khác con người mở ra tình huynh đệ đại đồng, nghĩa là tình liên đới xã hội nằm trong bản chất của con người. Hiến chế Gaudium et Spes đã nhấn mạnh: “Con người duy nhất và toàn diện, với thể xác và linh hồn, tình cảm và lương tri, trí khôn và ý chí. Vì thế, khi công bố ơn gọi cao cả của con người và khẳng định là hạt giống thần linh đã được gieo vào trong con người, Thánh Công đồng muốn dành cho nhân loại sự cộng tác chân thành của Hội thánh nhằm thiết lập tình huynh đệ đại đồng phù hợp với ơn gọi ấy” (GS 3). Còn theo sách Giáo lý của Hội thánh Công giáo, con người được gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa” vì con người có lý trí và ý chí, có khả năng định đoạt (GLCG 357) và có khả năng yêu thương (GLCG 1604; 2331).

Ngoài ra, ta cũng nên nhắc đến ý niệm nhân vị theo đạo đức sinh học. Theo đó nhân vị được hiểu là phẩm giá và giá trị của mỗi con người, được xác định bởi việc con người được tạo dựng “theo hình ảnh của Thiên Chúa”, tức là có lý trí, ý chí tự do và tương quan. Điều này có nghĩa là mỗi cá nhân đều mang trong mình một phẩm giá không thể tước đoạt, bất kể hoàn cảnh hay điều kiện nào.

2.2 Trí tuệ nhân tạo đã ảnh hưởng như thế nào đến con người xét như một nhân vị?

Khi nói về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV mà đặc trưng chính là sức mạnh của khoa học công nghệ nói chung và của AI nói riêng, Olivier Bonnewijn đã nhận định: “AI lan tỏa trong các trang trại và nhà máy, nhà kho và căn hộ, ô tô và trạm vũ trụ, tòa án và các bộ, thị trường và chiến trường, bệnh viện và trường học, các khu giải trí. Chúng ta đang chứng kiến sự lên ngôi của ‘nền văn minh thuật toán’, một nền văn minh được dẫn dắt bởi sự khôn ngoan của các thuật toán.”[60] Sự phát triển này đem lại rất nhiều lợi ích thiết thực cho con người và xã hội. Nói như triết gia Yuval Noah Harari: “Hầu hết con người thời nay được hưởng điều kiện sống tốt hơn nhiều so với tổ tiên thế kỷ 18. Những máy móc thông minh sẽ chứng minh chúng thậm chí còn có lợi hơn bất kỳ loại máy móc nào trước đây.”[61] Tuy nhiên bên cạnh những thành công đó, AI cũng là một yếu tố đang tác động mạnh mẽ đến con người xét như là một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan.

2.2.1 Tác động đến lý trí

Trên bình diện lý trí con người, AI có thể ảnh hưởng theo nhiều cách, cả tích cực lẫn tiêu cực. Bên cạnh những ích lợi từ việc AI có khả năng phân tích, xử lý dữ liệu với tốc độ nhanh, độ chính xác vượt trội thì sự tương tác giữa con người và AI cũng có thể tạo ra những thay đổi trong cách chúng ta nhận thức hoặc cách chúng ta tư duy.

2.2.1.1 Tích cực

Xét trên bình diện tích cực, thông qua khả năng xử lý ngôn ngữ tự nhiên, AI có thể gây ảnh hưởng nhiều đến lý trí. Chúng ta biết rằng ngôn ngữ là chìa khóa mở cửa cho kho tàng văn hóa - xã hội loài người. Nhờ ngôn ngữ, tri thức nhân loại được lưu giữ từ đời nọ sang đời kia bằng những câu chuyện, huyền thoại, thi ca, những tác phẩm văn hóa, triết học, v.v. Ngày nay, với khả năng xử lý và tạo ra ngôn ngữ một cách vượt trội so với khả năng của một con người bình thường, AI đã có thể làm chủ được ngôn ngữ. “Việc làm chủ ngôn ngữ sẽ mang lại cho máy tính một sức ảnh hưởng to lớn đến quan điểm và thế giới quan của chúng ta. Con người có thể sử dụng một cố vấn máy tính duy nhất như một trợ thủ cho mọi nhu cầu.”[62] Điều này có thể nâng cao năng lực cho lý trí nhưng cũng có thể làm cho lý trí suy thoái.[63] Nói như tác giả Matthew Kelly (sinh năm 1973) trong cuốn Rediscover Catholicism: “Nếu bạn muốn đầu độc một quốc gia, hãy đầu độc những truyện kể quốc gia ấy nghe. Nếu bạn muốn thuyết phục ai đó vào nhóm của bạn hay theo quan điểm của bạn, đừng gây chiến hay tranh luận với họ - hãy kể cho họ nghe một câu chuyện.”[64] Thật vậy, nắm được ngôn ngữ là nắm được tất cả, vì lẽ ngôn ngữ là yếu tố quan trọng trong đời sống xã hội con người. Con người dùng ngôn ngữ trong mọi lĩnh vực: sinh học, giáo dục, chính trị, kinh tế, nghệ thuật, tôn giáo và cả trong lĩnh vực tài chính. Những thứ như “tiền tệ, cổ phiếu và trái phiếu từng là những đối tượng vật lý được làm bằng vàng và giấy, nhưng giờ đây chúng đã trở thành các thực thể kỹ thuật số tồn tại chủ yếu trong cơ sở dữ liệu kỹ thuật số.”[65] Thậm chí, triết gia Harari Y. N. còn nhận xét:

Đầu những năm 2020, máy tính đã thể hiện khả năng vượt trội trong việc phân tích, xử lý dữ liệu và khởi tạo ngôn ngữ, cho dù bằng từ, âm thanh, hình ảnh hay mã hiệu. Khi tôi đang viết những dòng này, máy tính đã có thể kể chuyện, soạn nhạc, tạo ra hình ảnh, sản xuất video và thậm chí viết ra mã hiệu của riêng chúng.[66]

Với những khả năng trên, về mặt tích cực, AI có thể giúp cho lý trí con người nhận thức được chính xác hơn bằng cách phân tích một lượng lớn dữ liệu, cung cấp các thông tin, phân tích và dự đoán các giá trị mà con người có thể không dễ dàng nhận ra. “AI có thể số hóa tất cả sự khôn ngoan của trái đất, phân loại, xử lý và cung cấp một số khuyến nghị thiết thực nhất định cho bất kỳ ai mong muốn.”[67] Chúng ta có thể đưa ra một vài ví dụ: trong y học, AI có thể phân tích các dấu hiệu và kết quả xét nghiệm để giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh chính xác hơn, giảm thiểu khả năng mắc sai lầm trong phán đoán; trong tài chính, AI có thể dự đoán các xu hướng thị trường và giúp các nhà đầu tư ra quyết định sáng suốt hơn v.v.

Không những thế, AI còn cung cấp cho chúng ta một lượng thông tin khổng lồ và miễn phí để chúng ta có thêm nhiều cơ hội mở mang trí óc. Khác với trước đây, nguồn cung cấp thông tin chính cho mọi người chỉ là sách báo và đài phát thanh. Những phương tiện này thường bị giới hạn, vì không phải tất cả mọi thông tin đều được đưa lên báo chí, đài phát thanh. Nhưng ngày nay, việc tiếp cận với thông tin qua AI là điều quá dễ dàng. Từ đó, Yuval Noah Harari nhận định:

Thông tin về cơ bản là tốt, và chúng ta có càng nhiều thông tin thì càng tốt. Với đủ thông tin và thời gian, con người nhất định khám phá được sự thật về vạn vật, từ cảm nhiễm vi sinh cho đến thành kiến chủng tộc, từ đó phát triển không chỉ quyền lực mà còn là sự thông tuệ cần thiết để sử dụng quyền lực đó một cách tốt đẹp.[68]

Ngoài ra, AI cũng giúp nâng cao khả năng sáng tạo cho lý trí con người. Nhờ sự hỗ trợ của các công cụ AI – nhất là AI tạo sinh, năng lực sáng tạo của lý trí con người như được chắp thêm đôi cánh, nhiều ý tưởng mới mẻ xuất hiện trong các lĩnh vực như nghệ thuật, âm nhạc, văn học, v.v. Điều mà trước đây, việc sản xuất các nội dung sáng tạo chỉ dành cho tầng lớp nghệ sĩ tài năng, còn phần lớn đa số dân chúng chỉ là những người xem thụ động. Nhưng ngày nay, ai ai cũng có thể trở thành nhà sản xuất nội dung từ chính những câu chuyện trong cuộc sống của mình.

2.2.1.2 Tiêu cực

- Bên cạnh những lợi ích AI mang lại cho lý trí, chúng ta cũng đối mặt với những thách thức lớn. Với não trạng thực dụng và duy hiệu quả, dường như con người đang muốn xây dựng một “chủ nghĩa nghỉ ngơi” bằng những thứ “tức thì” – mọi thứ đều phải nhanh gọn lẹ. Những phẩm tính như kiên trì, nhẫn nại xem ra không còn quan trọng với con người trong thời đại AI. Thậm chí những công nghệ tìm kiếm mạnh mẽ như Google cũng phải nhường chỗ cho sự tiện lợi, nhanh gọn lẹ hơn của AI, chẳng hạn như ChatGPT, DeepSeek. AI cung cấp cho con người rất nhiều thông tin, nhưng chúng ta phải biết rằng thông tin chỉ là dữ liệu thô, là chất liệu để giúp chúng ta suy tư, lý luận rồi vươn đến sự thật, chứ tự thân nó không phải sự thật. Nói như triết gia Harari: “Thông tin thường được sử dụng để tạo ra trật tự hơn là khám phá sự thật.”[69] “Thông tin không phải là sự thật. Nhiệm vụ chính của nó là kết nối chứ không phải phản ánh, và những mạng lưới thông tin trong suốt lịch sử thường ưu tiên trật tự hơn là sự thật.”[70] Do đó, khi tiếp nhận những thông tin từ AI đòi hỏi chúng ta phải biết tổng hợp và biện phân tính đúng sai của thông tin, chứ không thể đem ra sử dụng một cách tự động mà không cần suy nghĩ, đặc biệt là trong vấn đề học thuật, nghiên cứu. Đồng thời, phải tuyệt đối tránh lối tư duy cho rằng AI “toàn năng”, biết hết mọi sự nên chấp nhận hoàn toàn thông tin do AI đưa ra và để cho AI suy nghĩ, làm việc thay mình. Đây là điều có thể khiến người dùng dễ bị tiếp nhận thông tin sai lệch, dẫn đến phán đoán sai lệch. Vì lẽ AI không phải là công cụ luôn luôn đúng. “Kiến thức” của nó chủ yếu lấy từ kho dữ liệu đầu vào, nhưng hiện nay, dữ liệu này chứa đầy những thông tin giả (nhất là thông tin từ các AI tạo sinh), lớn hơn nhiều so với thông tin thật.

- Mặc khác, kinh nghiệm thực tế cũng cho thấy: nếu chúng ta càng dựa vào máy móc nói chung, đặc biệt là AI nói riêng thì khả năng tự xử lý, giải quyết vấn đề của chúng ta càng kém. Bằng chứng là trong thời đại ngày nay, ai ai cũng cố gắng trang bị cho mình một chiếc điện thoại thông minh được kết nối Internet để truy cập thông tin, tìm kiếm kiến thức một cách nhanh, gọn và tức thì. Điều này sẽ không có gì xấu, cho đến khi nếu một cá nhân nào đó bị mất điện thoại thông minh. Người đó sẽ cảm thấy bất lực, bất an và không còn biết làm gì cả. Bởi lẽ từ lâu họ đã quá phụ thuộc vào công nghệ nói chung và AI nói riêng. Hơn nữa, phụ thuộc vào AI còn làm cho tư duy của lý trí con người bị giới hạn, chỉ nhìn được một cách phiến diện nơi các sự kiện mà thiếu cái nhìn bao quát. Khi AI cung cấp các kết quả cụ thể thì cũng là lúc cách tiếp cận vấn đề của con người có thể bị hạn định trong một khuôn mẫu nếu chúng ta xem như thế là đã đủ rồi. Do đó, Henry A. Kissinger, Eric Schmidt và Daniel Huttenlocher trong cuốn The Age of AI and Our Human Future đã khẳng định:

AI cũng đang thực hiện một phép trừ. Nó đẩy nhanh những động lực làm xói mòn lý trí của con người (ví dụ: mạng xã hội làm giảm khả năng suy nghĩ và xuất sắc trong việc gây nghiện). Dần dà, vai trò của lý trí con người trong việc xem xét, kiểm tra và hiểu thông tin sẽ giảm đi, trong khi vai trò của AI sẽ được mở rộng.[71]

- Không những thế, một điều hạn chế khác đến từ đặc điểm kỹ thuật của AI cũng có thể khiến lý trí con người bị ảnh hưởng đó là những thành kiến. AI sẽ thiên vị (bias) nếu nó được huấn luyện (training) trên những nguồn dữ liệu có sự thiên lệch. Do đó, khi con người dựa vào AI này để phán đoán, họ có thể vô tình bị ảnh hưởng bởi những định kiến mà chính họ đã không nhận ra. Thí dụ những hệ thống AI tuyển dụng, nếu mô hình (model) AI này được huấn luyện trên dữ liệu không đầy đủ hoặc dữ liệu có sự phân biệt về giới tính, chủng tộc, v.v. thì rất có thể nó cũng sẽ đưa ra những gợi ý tuyển dụng nhân viên một cách không công bằng.

Tóm lại, mặc dù AI có thể nâng cao khả năng hiểu biết và sáng tạo của con người qua việc cung cấp nhiều thông tin, gợi ý hữu ích nhưng nó cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến lý trí nếu con người quá phụ thuộc vào nó. Do đó, trong khi sử dụng AI, điều quan trọng là nhận định sau cùng phải thuộc về con người. Nếu không, AI có thể gián tiếp làm suy yếu lý trí, khiến con người đưa ra những phán đoán thiếu sự đồng cảm hoặc thiếu sự hiểu biết về các yếu tố nhân văn.

2.2.2 Tác động đến ý chí tự do

Qua phần trên, chúng ta đã tìm hiểu về ảnh hưởng của AI đến lý trí con người. Trong phần này, chúng ta sẽ tiếp tục suy tư về ảnh hưởng của nó đến ý chí tự do, bao gồm cả những điều tích cực lẫn những điều tiêu cực.

2.2.2.1 Tích cực

Nhờ AI, ý chí con người được tăng cường khi đưa ra những quyết định, những chọn lựa trong cuộc sống. Điều này xuất phát từ khả năng phân tích lượng dữ liệu khổng lồ mà con người không thể xử lý hết theo cách thủ công. Chẳng hạn trong các tình huống phức tạp, nơi mà có quá nhiều biến số và các mối quan hệ tương tác lẫn nhau thì sự hỗ trợ của AI để con người ra quyết định quả là một điều hữu ích. Xin đưa ra một vài thí dụ:

- Trong y tế, AI có thể phân tích và đưa ra các phương án điều trị phù hợp dựa trên thông tin về bệnh nhân, lịch sử khám chữa bệnh và kết quả xét nghiệm trong khi khả năng chuyên môn về y tế của con người chỉ có thể làm việc với một lượng thông tin hạn chế.

- Trong các hệ thống tự động hóa, trong giao thông, trong sản xuất, trong lĩnh vực dịch vụ khách hàng, v.v. AI có thể tự động đưa ra các quyết định như xử lý khiếu nại, trả lời câu hỏi, hoặc thậm chí thực hiện các giao dịch đơn giản, v.v. mà không cần đến sự can thiệp của con người. Đặc biệt hơn cả, trong lĩnh vực yêu cầu xử lý thời gian thực (xử lý tức thời) đòi hỏi phải ra quyết định nhanh, khẩn cấp thì AI đã tỏ ra nó vô cùng hữu ích. Ví dụ nơi các hệ thống tự lái, AI có thể quyết định một cách nhanh chóng và chính xác hơn con người trong việc điều khiển phương tiện khi gặp các tình huống giao thông nguy hiểm.

- Trong một số lĩnh vực khác như: tuyển dụng, xét duyệt hồ sơ, xét xử pháp lý, chẩn đoán y khoa, v.v. quyết định của con người dễ mắc phải các sai lầm do cảm xúc hoặc thiếu thông tin; còn AI thì đưa ra quyết định dựa trên phân tích logic nguồn dữ liệu lớn nên khả năng chính xác thì rất cao. Về những vấn đề này, Yuval Noah Harari cũng nhận định:

AI cũng có tiềm năng tích cực giúp những công chức an toàn vệ sinh bằng xương bằng thịt phát hiện ra các mối đe dọa với nguồn nước uống; giúp các bác sĩ nhận biết các loại bệnh tật và các dịch bệnh đang manh nha bùng phát; và giúp các viên cảnh sát và nhân viên công tác xã hội nhận biết được những người vợ/chồng và con trẻ bị bạo hành.[72]

2.2.2.2 Tiêu cực

- Dường như AI đang chiếm đoạt quyền chọn lựa và quyết định của ý chí con người. Trong cuốn The Fourth Age, tác giả Byron Reese trích dẫn lời nhận xét của Steve Wozniak, người đồng sáng lập của Apple thời kỳ đầu:

Ngày nay, bỗng nhiên chúng ta mất quá nhiều quyền kiểm soát. Chúng ta không thể tắt Internet, không thể tắt điện thoại thông minh, không thể tắt máy tính. Ngày xưa, chúng ta tìm đến một người thông minh để đặt câu hỏi. Còn bây giờ, chúng ta hỏi ai? Đối tượng của chúng ta hỏi cũng có tên bắt đầu bằng chữ G – o, nhưng đó là Google, chứ không phải God.[73]

Thật vậy, kinh nghiệm cho thấy ngày nay con người đang rất lệ thuộc vào AI để quyết định, chẳng hạn khi xem phim trên Netflix, xem video trên Youtube, Facebook chúng ta vẫn thích để AI gợi ý hoặc thậm chí là bật hẳn tính năng tự động phát; rồi khi đi đường, ta cũng hay dựa vào AI của Google Maps để chọn rẽ phải hay rẽ trái; và thậm chí ngày nay còn có người dựa vào AI để quyết định học cái gì hay hẹn hò với ai, v.v.[74] Những ví dụ nhỏ này cho thấy con người đang dần trao quyền tự quyết của ý chí mình cho AI. Điều này thực sự đáng lo ngại. Bởi lẽ khi AI quyết định mà không có sự giám sát kỹ càng của con người sẽ có thể dẫn đến những điều sai lầm hoặc thậm chí nguy hiểm.[75] Nó cũng đã và đang đặt ra rất nhiều những vấn đề đạo đức. Như Yuval Noah Harari nhận xét:

Sự trỗi dậy của những cỗ máy thông minh có thể tự quyết và tự kiến tạo ý tưởng mới có nghĩa là lần đầu tiên trong lịch sử, quyền lực đang chuyển từ con người sang một thứ khác. Những vũ khí như nỏ, súng hỏa mai và bom nguyên tử thay thế cơ bắp con người trong việc giết chóc, nhưng chúng không thể thay thế bộ não con người trong việc quyết định giết ai. […] Máy tính thì lại khác. Về trí tuệ, máy tính không chỉ vượt xa bom nguyên tử mà còn hơn mọi công nghệ thông tin trước đó.[76]

- Ngoài ra, AI có thể đưa ra những quyết định thiếu sự đồng cảm và tình người, gọi chung là những quyết định không nhân văn. Vì lẽ nó “không phải là con người. Nó không biết hy vọng, cầu nguyện hay cảm nhận. Nó không có khả năng nhận thức hay suy nghĩ. Trí tuệ nhân tạo [chỉ] là một phát minh của con người, [chỉ] phản chiếu các quy trình do con người thiết kế lên những cỗ máy do con người tạo ra.”[77] Do đó AI vừa không có khả năng nhận thức về chính mình, cũng vừa không có khả năng nhận thức về người khác. Chỉ có con người xét như một nhân vị mới có khả năng đặt ra những câu hỏi về ý nghĩa, còn với máy móc thì tất cả mọi thứ đều như nhau. Mặc dù nó có thể tạo ra mối liên kết giữa các dữ liệu trong nhiều cảnh huống cuộc sống nhưng điều đó khác với việc con người hiểu và mô tả chúng. Như lời Olivier Bonnewijn nhận định: “Nó [AI] không thể phân định tính độc đáo của từng hoàn cảnh, của mỗi cá thể, của mỗi nền văn hóa và của mỗi xã hội luôn tiến hóa không ngừng. Nó chỉ hiểu tính độc đáo như một yếu tố đặc thù trong sự tự hình thành như một tổng thể kỹ thuật số.”[78]

- Hơn nữa, xét trên bình diện luân lý đạo đức, những quyết định trong lĩnh vực này phải do con người đưa ra chứ không phải từ AI. Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục của Tòa Thánh cũng khẳng định một điều tương tự trong Văn kiện Antiqua et Nova: Ghi chú về mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí khôn con người, ban hành vào ngày 28/01/2025: “Giữa máy móc và con người, chỉ có con người mới thực sự là tác nhân đạo đức - chủ thể của trách nhiệm đạo đức, người thực hiện quyền tự do trong các quyết định của mình và chấp nhận hậu quả của chúng.”[79] Hơn nữa, “chỉ những chủ thể có nhân vị mới có đầy đủ tính nhân quả luân lý, chứ không phải các thực thể nhân tạo.”[80] Thật vậy, AI không được và cũng không thể phân định luân lý đúng sai tốt xấu, nhất là khi nó được tạo trên những kho dữ liệu không “trong sạch”. Theo Olivier Bonnewijn: “Các thuật toán [chỉ] là nơi mà con người ghi khắc vào chúng. […] Chúng không trung lập. Chúng được phát triển từ những lựa chọn khôn ngoan hoặc không, từ những ước muốn của con người đôi khi sâu sắc và trong sáng, đôi khi tăm tối và ngụy trang.”[81] Do đó, nếu con người trao cho AI quyền quyết định một cách hoàn toàn về các vấn đề luân lý thì hậu quả tan thương là điều khó có thể tránh khỏi. Đặc biệt là những quyết định mang tính chấm dứt sự sống con người trong các trường hợp như trợ tử, an tử hay chiến tranh. Có thể lấy một thí dụ minh chứng cho điều này:

Khoảng năm 2014-2015, Cục An ninh Quốc gia Mỹ (NSA) đã triển khai một công cụ AI có tên Skynet nhằm đặt những cá nhân vào danh sách “nghi phạm khủng bố” dựa trên các xu hướng điện tử liên quan đến thông tin trao đổi, ghi ghép, lịch sử đi lại và các bài đăng trên mạng xã hội. Theo một báo cáo, công cụ AI này tham gia giám sát hàng loạt mạng điện thoại di động của Pakistan rồi sử dụng một thuật toán học máy xử lý siêu dữ liệu mạng di động của 55 triệu người để thử-sai và đánh giá khả năng ai có thể là khủng bố. Kết quả là đã có nhiều người bị gắn nhãn khủng bố. Một cựu giám đốc của cả CIA và NSA tuyên bố: Chúng tôi giết người dựa trên siêu dữ liệu. Tuy nhiên, chúng ta thấy rằng AI cũng có thể xếp những người vô tội là khủng bố, vì tự thân các định nghĩa như “khủng bố” chưa thực sự khách quan. Khi AI dán nhãn ai đó là khủng bố, nó phản ánh thiên kiến ý thức hệ hơn là sự thật khách quan.[82]

- Mặc khác, khi suy tư về tự do, có thể thấy: trong kỷ nguyên số này, AI đang định hình cách sống của mỗi người chúng ta. Nói như Yuval Noah Harari: “Dù sống ở đâu, chúng ta cũng sẽ nhận ra mình đang bị bao khỏa trong một mạng lưới những thuật toán không thể hiểu thấu, song lại quản lý cuộc đời chúng ta, định hình lại chính trị và văn hóa của chúng ta, và thậm chí tái cấu trúc cơ thể và tâm trí của chúng ta.”[83] Sở dĩ ông nói như vậy, vì lẽ trong thời đại ngày nay, “mỗi hành động chúng ta làm đều để lại dấu tích dữ liệu, vốn sẽ được thu thập và phân tích để nhận diện các xu hướng.”[84] Từ đó AI “đẩy con người đến một kiểu tồn tại mới, mà ở đó chúng ta luôn phải kết nối và luôn bị theo dõi.”[85]

Hơn thế nữa, cùng với sự ra đời của những sản phẩm AI được ứng dụng trong các phần mềm gián điệp, nhận dạng khuôn mặt, nhận dạng giọng nói, camera giám sát và nhất là điện thoại thông minh (của chính mỗi cá nhân) có thể làm cho tự do của con người thêm bị đe dọa. Về điều này, Yuval Noah Harari cũng nhận xét:

Đến năm 2024, chúng ta đang tiến gần đến điểm mà một mạng lưới máy tính ở khắp mọi nơi có thể theo dõi dân số của toàn bộ các quốc gia hai mươi bốn giờ một ngày. Mạng lưới này không cần thuê và đào tạo hàng triệu mật vụ là con người để theo dõi chúng ta khắp mọi nơi. Thay vào đó, nó dựa vào các tác tử kỹ thuật số.[86]

Vì thế một cách hiển nhiên, ta có thể thấy: nếu mạng lưới giám sát của AI ngày càng mở rộng thì sự riêng tư và quyền tự do cá nhân của con người sẽ càng bị thu hẹp. Bởi lẽ, “trong một thế giới mà con người giám sát con người, quyền riêng tư là điều mặc định. Nhưng trong một thế giới mà máy tính giám sát con người, lần đầu tiên trong lịch sử quyền riêng tư có thể bị hủy diệt hoàn toàn.”[87]

Như vậy, một cách tổng quan, chúng ta đã thấy được các ảnh hưởng của AI đến ý chí tự do con người. Một đàng, AI có thể giúp đỡ chúng ta đưa ra quyết định tốt hơn; đàng khác, nếu quá phụ thuộc vào AI, chúng ta có thể mất đi khả năng độc lập, tự do lựa chọn và quyết định. Do đó, sự phát triển của AI đặt ra rất nhiều những câu hỏi liên quan đến đạo đức. Với tư cách là một con người xét như một nhân vị, có lý trí và ý chí tự do, “con người không bao giờ nên từ bỏ quyền tự chủ đạo đức cho máy móc và máy móc phải ‘phù hợp’ với các giá trị của con người.”[88] “Một công cụ cụ thể được phát triển, nó có thể được dùng cho nhiều mục đích sử dụng. Chúng ta có thể sử dụng một con dao để giết một người, để cứu sống trong phòng phẫu thuật, hoặc để cắt rau củ cho bữa tối. Con dao không cưỡng ép bàn tay chúng ta. Đó là sự lựa chọn của con người.”[89]

2.2.3 Tác động đến tương quan xã hội

Như đã đề cập ở các phần trước: sự xuất hiện của AI trong thế giới ngày nay không chỉ được đánh giá như một công cụ, một phát minh nhưng còn là một cuộc cách mạng đặc biệt đối với xã hội loài người. Mà đã là cuộc cách mạng thì hẳn nó sẽ làm thay đổi xã hội, đặc biệt là các mối tương quan. Điều này được thể hiện rất rõ trong lịch sử qua các cuộc cách mạng công nghiệp thứ I, thứ II, thứ III; và ở cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ IV này cũng vậy: AI đang dần làm thay đổi nhiều mối tương quan xã hội. Nó mở ra nhiều cơ hội nhưng đồng thời cũng khơi lên nhiều thách đố. Có thể kể đến một số điểm như sau:

2.2.3.1 AI thay đổi cách con người tương tác, giao tiếp và làm việc với nhau

Sự có mặt của Trí tuệ nhân tạo đã giúp cho việc tương tác giữa con người - con người, con người - máy móc được thuận tiện và dễ dàng hơn rất nhiều.[90] Riêng về khả năng nối kết mọi người lại với nhau thì khoa học công nghệ nói chung đã thực hiện được từ nhiều chục năm về trước, chẳng hạn ở thời điểm thế kỷ XX, ta có nhận định của nhà nhân vị thuyết Emmanuel Mounier: “Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã phá vỡ ranh giới của cá nhân và các cộng đồng hữu hạn của cá nhân, mở ra cả các không gian rộng rãi và các mối quan hệ tập thể trên mọi phương diện.”[91] Hơn hết ở hiện nay, ưu điểm đó lại càng bộc lộ cách rõ ràng và mạnh mẽ hơn nữa khi việc ứng dụng AI vào các mạng xã hội thể hiện qua các thuật toán đề xuất trên Facebook, Instagram hay YouTube, v.v ngày càng phổ biến. Điều này đã giúp cho con người có thêm nhiều cơ hội hơn nữa để khám phá những nội dung mới, kết nối với nhiều bạn bè mới, cộng đồng mới.[92]

Đồng thời, AI cũng đang thực hiện một cuộc cách mạng hóa phương thức làm việc trong xã hội chúng ta. Nhờ ứng dụng AI vào các phần mềm hỗ trợ giao tiếp, hỗ trợ làm việc nhóm như Teamwork, Trello AI, Asana AI, Microsoft To-Do, FastWork Project, Slack, v.v. mà ngày nay, hình thức Làm việc từ xa (Work from home - WFH) đã trở nên phổ biến và thịnh hành hơn bao giờ hết. Với phương thức làm việc này, con người dù ở bất cứ nơi đâu trên thế giới vẫn có thể tương tác và làm việc chung với nhau. Ưu điểm này phần lớn đến từ khả năng nối kết và xử lý tự động hóa của AI. Cách riêng là qua những phần mềm quản lý công việc, AI giúp mọi người trong nhóm tương tác với nhau, cùng nhau làm việc không chỉ dưới hình thức Offline mà còn cả Online. Chẳng hạn AI có thể tự động tính toán mức độ hoàn thành danh sách công việc được giao, tự động phân công nhiệm vụ cho từng người, tự động quản lý kiểm soát danh sách nhiệm vụ, quản lý tất cả các công việc trên một hệ thống tập trung, trực tuyến, v.v. Đây quả thực là một điều hữu ích mà AI đã mang đến cho con người xét về cách thức tương tác và làm việc nhóm.

Tuy nhiên, mặt tiêu cực mà AI gây ra cho đời sống tương quan của con người cũng không hề nhỏ, đặc biệt là về cách chúng ta tương tác với nhau. Mặc dù những ứng dụng AI có thể giúp kết nối người với người thông qua nhiều nền tảng trực tuyến, nhưng đồng thời, AI cũng có thể làm giảm sự tương tác trực tiếp giữa các cá nhân, khiến con người cảm thấy thiếu thốn sự gần gũi và sự hiện diện vật lý của những người xung quanh. Trong cuốn 21 Lessons for the 21st Century, triết gia Harari nhận định:

Trong một thế kỷ vừa qua, công nghệ đã tạo khoảng cách giữa chúng ta với cơ thể của chính mình. Chúng ta đã và đang mất dần khả năng chú ý đến những gì mình ngửi và nếm. Thay vào đó, ta mải mê chìm vào điện thoại thông minh và máy tính. Ta hứng thú với những gì xảy ra trong không gian mạng hơn những gì xảy ra dưới phố.[93]

Có thể nói: AI mang những người bạn xa-ảo lại gần, nhưng lại đẩy những người bạn-thực gần ra xa. Điều này xem ra rất trái ngược với bản tính tự nhiên của con người xét như một nhân vị. Con người tự bản tính được kêu gọi để sống trong xã hội, là tập thể những người sống liên kết với nhau cách hữu cơ theo một nguyên lý hợp nhất, vượt lên trên từng cá nhân. Những điều này được thể hiện rất rõ nơi triết học của Emmanuel Lévinas. Trong tác phẩm Totality and Infinity, Lévinas nhận định: “Tương quan là điều quan trọng nhất, bởi tôi không thể tách mình ra khỏi người khác.”[94] Theo ông, cuộc sống của nhân vị là một chuỗi những đối thoại, mà theo đó toàn bộ trọng tâm được chuyển dịch sang cái Bạn.[95] Cái Bạn này trở thành cái Khác. Cái Khác theo Lévinas chính là Tha Nhân, mà Tha nhân ở đây là một con người thực sự, không phải sự vật. Cũng vậy, trong một cuốn sách khác - Ethics and Infinity, Lévinas đặc biệt nhấn mạnh: “Mối liên kết thực sự hay tương quan thực sự là tương quan mặt đối mặt,”[96] tức là từ khuôn mặt tới khuôn mặt của con người, là face-to-face, chứ không phải là tương quan gặp gỡ online qua “face-book”, qua màn hình điện thoại, máy tính.

Thêm vào đó, trong cuốn Thuyết Nhân Vị, Emmanuel Mounier cũng lưu ý với chúng ta: “Nhân vị là một sự hiện diện hướng về thế giới và các nhân vị khác, được hòa lẫn giữa họ trong không gian vũ trụ. Các nhân vị khác không giới hạn nó, họ cho phép nó tồn tại và phát triển.”[97] Tuy nhiên, trong thời đại hôm nay, con người vẫn sống trong xã hội nhưng chủ yếu là một xã hội ảo, nơi mà công nghệ và AI thống trị, nơi con người chỉ là những “data”. Đây không phải là vấn đề mới của thời đại chúng ta, ngay từ xa xưa, con người đã sợ bị mắc kẹt trong một thế giới ảo, điều mà ngụ ngôn Cái hang của Platon đã nói: Một nhóm người bị xích giữ bên trong một hang động, cả đời đối mặt với một bức tường trơ trụi; Trên bức tường đó, họ thấy nhiều hình bóng khác nhau được phản chiếu lên; Các tù nhân nhầm lẫn những ảo ảnh mà họ nhìn thấy ở đó với hiện thực. Tương tự như vậy, ngày nay nếu người ta cứ mãi sống trong thế giới ảo thì sự lầm lẫn giữa các giá trị thực và ảo là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Càng đắm mình vào thế giới ảo này nhiều, con người sẽ càng cô đơn, càng thụt lùi và kém phát triển do sự tách biệt mình ra khỏi xã hội thực. Hơn thế nữa, điều này còn kéo theo sự giảm sút tính đa dạng trong các mối quan hệ xã hội và hình thành những vòng tròn thông tin hạn chế. Từ đó khiến con người mất dần khả năng hiểu và đồng cảm với người khác.

2.2.3.2 AI đặt con người vào tương quan bị giám sát

Tương quan của một nhân vị là tương quan yêu thương. Yêu thương là yếu tố mà những nhà nhân vị luôn đặt lên hàng đầu khi xây dựng học thuyết về con người. Chẳng hạn E. Mounier đã đặt toàn bộ học thuyết của mình trên nền móng: “Tôi yêu thương, vậy nên tôi tồn tại.”[98] Tương tự, Lévinas cũng viết: khi “hiện hữu trong tương quan trực tiếp với tha nhân”, ta không thể xem người khác như “cùng một cách xem xét một đối tượng đã biết.”[99] Điều này có nghĩa rằng trong tương quan, ta không được phép thống trị, áp đặt hay chiếm hữu tha nhân theo cách của mình. Ý niệm “Tha thể” của Lévinas, dù viết hoa hay viết thường, “đều nói tới một tha thể có nhân vị, một con người khác.”[100] “Tha thể với tư cách người khác không phải là một đối tượng trở thành sở hữu của chúng ta hay trở thành chúng ta.”[101] Bởi vì, theo Lévinas, tha nhân có khuôn mặt, mà khuôn mặt lại diễn tả con người. “Khuôn mặt [tha nhân] kháng cự sự sở hữu, chống lại những ảnh hưởng của tôi,”[102] chỉ có những sự vật mới có thể bị sở hữu, còn con người là để yêu thương.

Tuy nhiên, sống trong thời đại số hóa này, dường như con người chịu tương quan bị “giám sát” nhiều hơn là được yêu thương. Khi nói về giám sát, chúng ta thường nghĩ đến bộ máy do nhà nước điều hành, nhưng “ngoài các loại giám sát từ trên xuống này, còn có các hệ thống ngang hàng mà trong đó những cá nhân liên tục giám sát lẫn nhau.”[103] Với sự hỗ trợ của AI, tương quan xã hội của con người càng rơi sâu vào vòng xoáy của sự giám sát. Giám sát từ những cuộc trò chuyện, nhắn tin, gọi điện đến việc truy cập Internet hay lướt gì trên các mạng xã hội. Giám sát để tìm ra sai lỗi của người khác, để lên án thay vì tha thứ và yêu thương. Lấy một thí dụ như phần mềm đánh giá một sao, hai sao hay năm sao đối với hoạt động của người khác.[104] Phần mềm này tuy rằng có ích nhưng chúng ta thử hỏi: nếu đâu đâu ta cũng gặp những hình thức giám sát và đánh giá kiểu như vậy, liệu cuộc sống con người có còn tình yêu, còn riêng tư, còn nhẹ nhàng, thoải mái hay luôn trong tình trạng căng thẳng vì mọi sai sót sẽ bị ghi lại để đánh giá, khiển trách, chê bai. Tương quan bị “giám sát” không chỉ phá đi hạnh phúc của con người mà còn làm thay đổi quá trình vận hành bình thường của xã hội. Nói tóm lại, về điểm này, AI có thể gián tiếp tạo nên những rạn nứt trong các mối tương quan khi con người giám sát nhau, theo dõi nhau, khiến cho nhau luôn sống trong tình trạng lo âu, đề phòng.

Từ những gì đã trình bày trên đây, chúng ta thấy: AI đang dần ảnh hưởng sâu rộng đến xã hội con người. Nó không chỉ tác động trên bình diện đạo đức, đời sống tình cảm, cảm xúc mà còn làm thay đổi nhiều mối tương quan căn bản tự bản tính của con người theo chiều hướng tích cực lẫn tiêu cực. Tuy nhiên, quyền làm chủ vẫn là của con người, nói như Yuval Noah Harari:

Con người vẫn còn đang nắm quyền kiểm soát […] chúng ta vẫn có sức mạnh để định hình những hiện thực mới này. Và để làm như vậy một cách khôn ngoan, chúng ta cần hiểu thấu được những gì đang xảy ra. […] Chúng ta cũng cần chịu trách nhiệm về những gì chúng ta đang làm.[105]

3. NHẬN ĐỊNH VÀ ÁP DỤNG

3.1 Nhận định tổng quan về Trí tuệ nhân tạo

3.1.1 Một vài nhận định về AI

Đối diện với AI, chúng ta có nhiều quan điểm:

- ĐTC Phanxicô trong Sứ điệp Trí tuệ nhân tạo và Hòa bình đã nhận định:

Trí tuệ nhân tạo sẽ ngày càng trở nên quan trọng. Những thách đố mà nó đặt ra không chỉ là về kỹ thuật mà còn liên quan đến cả nhân chủng học, giáo dục, xã hội và chính trị. Chẳng hạn, Trí tuệ nhân tạo hứa hẹn làm việc đỡ vất vả, sản xuất hiệu quả hơn, vận chuyển dễ dàng hơn và có thị trường năng động hơn cũng như cách mạng trong việc thu thập, tổ chức và xác minh dữ liệu. Chúng ta cần nhận thức được những biến đổi nhanh chóng hiện đang diễn ra và cần quản lý chúng theo hướng bảo vệ các quyền cơ bản của con người đồng thời tôn trọng các thể chế và luật lệ thúc đẩy sự phát triển con người toàn diện. Trí tuệ nhân tạo phải phục vụ tiềm năng tốt nhất của con người và những khát vọng cao nhất của con người chứ không phải để con người cạnh tranh với chúng.[106]

Đồng thời, trong Sứ điệp Trí tuệ nhân tạo và Sự khôn ngoan của Con tim, Ngài cũng nói thêm:

Trước hết, chúng ta cần gạt sang một bên những dự đoán thê thảm và hậu quả tê liệt của chúng. Một thế kỷ trước, suy tư về công nghệ và con người, Romano Guardini đã mời gọi chúng ta đừng trở nên cứng nhắc chống lại “cái mới” khi cố gắng “giữ lấy một thế giới đẹp bị kết án phải biến mất”. Đồng thời, ông đã cảnh báo rằng “vị trí của chúng ta luôn trong tiến trình trở thành. Chúng ta phải tham gia vào tiến trình này, mỗi người theo cách riêng của mình, gắn bó một cách trung thực nhưng vẫn nhạy bén, bằng một con tim liêm khiết.[107]

- ĐGM Phêrô Nguyễn Văn Khảm cũng nhận định:

Cũng như mọi thứ kỹ thuật, Trí tuệ nhân tạo có thể “là phương tiện phục vụ yêu thương” và cũng có thể là “công cụ thống trị thù địch”. Một đàng, Trí tuệ nhân tạo có thể giúp chúng ta tiếp cận dễ dàng di sản kiến thức khổng lồ của nhân loại và giúp mọi người giao tiếp với nhau bằng những ngôn ngữ mà họ chưa biết […]. Đàng khác, chúng cũng có thể gây “ô nhiễm về nhận thức”, […] tạo nên nhiều hậu quả tai hại khó lường trong mối tương quan giữa người với người.[108]

- Cha Benanti, chủ tịch Ủy ban AI của chính phủ Ý, có ý kiến: AI là “món quà” của Thiên Chúa ban cho thời đại chúng ta. Chúng ta không nên quá lo sợ mà không dám sử dụng AI, vì như thế là “chôn giấu nén bạc” của Chúa. Ngài phát biểu:

Trí tuệ nhân tạo là một công nghệ. Tự nó không có vấn đề gì, nhưng vì những ảnh hưởng của nó đối với xã hội và ý định của những người sử dụng nó. Một “trợ lý ảo” ẩn mình trong điện thoại di động có thể là kẻ thù tồi tệ nhất của thanh thiếu niên, nếu nó khuyến khích họ đưa ra những lựa chọn tồi tệ, nhưng nó cũng có thể cứu sống một người già, nếu họ gặp tai nạn và họ dùng nó để gọi điện để được giúp đỡ.[109]

- Tác giả Lê Đình Phương nhận định: AI là một phát minh tuyệt vời của con người. Sự xuất hiện của AI “như một hiện tượng làm lộ ra phẩm giá của con người là loài thông minh (homo sapiens), được tạo dựng theo hình ảnh của Thiên Chúa, có trí khôn và sự tự do để chọn điều lành hay điều dữ.”[110]

- Tác giả Ben Buchanan và Andrew Imbrie trong cuốn The New Fire nhận định:

Ngày nay, chúng ta bắt gặp AI như tổ tiên xa xôi của chúng ta đã từng gặp lửa. Nếu chúng ta quản lý tốt công nghệ này, nó sẽ mang lại ích lợi vô cùng to lớn […]. Còn nếu chúng ta sử dụng nó quá vội vàng và không có cái nhìn đầy đủ, AI sẽ “cháy” theo những cách mà chúng ta không thể nào kiểm soát.[111]

- Theo Stephen Hawking trong cuốn Brief Answers to the Big Questions:

Thành công trong việc tạo ra AI có thể là sự kiện lớn nhất trong lịch sử loài người. Thật không may, đó cũng có thể là sự kiện cuối cùng, trừ phi chúng ta học được cách tránh những rủi ro. Như một công cụ, AI có thể tăng cường trí thông minh hiện có của chúng ta để mở ra những tiến bộ trong lĩnh vực khoa học và xã hội. Tuy vậy, nó cũng sẽ mang đến nhiều nguy hiểm.[112]

- Riêng triết gia Harari, mặc dù ông không phủ nhận những lợi ích mà AI đem lại, nhưng ông vẫn luôn nhận định: “Sự phát triển của AI có thể đưa đến một thế giới bị các thực thể siêu thông minh nhưng hoàn toàn không có ý thức thống trị.”[113]

3.1.2 Nhận định cá nhân thông qua cách thức áp dụng AI vào cuộc sống thực tế

Trong cuộc sống thực tế, để nhận ra được tính hai mặt của AI quả là điều không dễ đối với một xã hội thực dụng như hiện nay. Một phần, dường như con người chấp nhận mất tính chủ vị trên công nghệ và những quyết định hằng ngày, hơn là phải độc lập tự mình học hỏi, tìm tòi, nghiên cứu. Phần khác, khả năng của AI là rất giỏi trong việc “quyến rũ” và “gây nghiện” cho bất kỳ con người nào.[114] Chỉ cần nhắc tới vài cái tên có ứng dụng AI như Facebook, Tiktok, v.v thôi là đủ. Chúng “quyến rũ” từ trẻ con đến người già, đủ mọi lứa tuổi, đủ mọi thành phần rơi vào thế giới ảo, xa rời thế giới thật, con người thật. Đây là điều rất đáng quan ngại mà nhiều lần ĐTC Phanxicô đã nhắc nhở: “Các phương tiện truyền thông kỹ thuật số có thể đặt con người vào nguy cơ bị lệ thuộc, cô lập và mất dần sự tiếp xúc với đời sống thực tế cụ thể, là những thứ cản trở sự phát triển các mối quan hệ liên bản vị đích thật.”[115]

Rủi ro như vậy, nhưng sống trong thời đại hiện nay, để tồn tại và phát triển, con người không thể nào lẩn tránh, chối từ thế giới công nghệ kỹ thuật. Vậy ta phải làm sao? Về điều này, trong tác phẩm Gelassenheit, Heidegger (1889 - 1976) khi suy tư về Dasein, về cách thức hiện hữu trung thực của Dasein đã nhận định:

Ta có thể nói “có” với việc sử dụng – trong trường hợp không thể tránh – các vật dụng kỹ thuật, nhưng đồng thời vẫn nói “không” qua việc ngăn chặn không để chúng hoàn toàn khống chế, làm lệch lạc, gây xáo trộn và kỳ cùng làm cằn cỗi bản chất của mình. […]. Ta cho các phương tiện kỹ thuật được thâm nhập vào đời sống, nhưng đồng thời cũng để lại chúng bên ngoài, nghĩa là để chúng như thế, như những thứ chẳng có gì là tuyệt đối cả, mà chỉ là những thứ phải chịu phụ thuộc vào những điều cao cả hơn.[116]

“Điều cao cả hơn” mà Heidegger nói đến, chính là Dasein được xét như một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan. Do đó, với phẩm giá của một nhân vị, đòi buộc chúng ta phải khôn ngoan trong việc xây dựng và nhất là sử dụng AI. Sự khôn ngoan đó được thể hiện ở chỗ chúng ta thận trọng, suy nghĩ thấu đáo và biết tư duy biện chứng trước những vấn đề mà AI gợi ý. Để đạt được điều này, ngoài việc rèn luyện cho mình một ý chí tự chủ, một con tim liêm khiết, con người cần phải nỗ lực học tập, đào luyện cho mình một lý trí sáng suốt. Vì nếu ta không biết thì làm sao ta phản biện, “mù mà lại dắt mù” được sao! Triết gia Harari cũng nhận định về vấn đề này: “Nếu chúng ta đầu tư quá nhiều vào phát triển AI và quá ít vào phát triển ý thức con người, trí tuệ nhân tạo rất phức tạp của máy tính có thể chỉ phục vụ việc trao quyền cho sự ngu dốt bẩm sinh của con người mà thôi.”[117] Thật vậy, AI chỉ là công cụ và nó chỉ giúp chúng ta tiết kiệm thời gian, giảm bớt công sức và tạo ra nhiều kết quả, chứ nó không thể thay thế hoàn toàn vai trò của chúng ta. Một cách nào đó có thể nói, trong thời đại AI, con người cần phải học và rèn luyện cho mình nhiều hơn nữa, chứ không phải lối tư duy: AI đã làm được tất cả, từ dịch thuật, viết bài cho đến viết nhạc, vẽ tranh, tôi cần gì phải học những thứ đó nữa! Nên nhớ rằng: “Máy móc chắc chắn sở hữu khả năng lưu trữ và tương quan dữ liệu lớn hơn rất nhiều so với con người, nhưng chỉ con người mới có khả năng hiểu được dữ liệu đó.”[118] Do đó, chỉ khi nào ta xác định được đâu là vị trí của một AI so với một nhân vị, khi đó ta mới thực sự phát triển và giữ được vai trò làm chủ của mình trong thế giới vũ trụ này. Nói như Paula Boddington:

AI là một công cụ. Chúng ta cần làm chủ các công cụ của mình. Chúng ta sử dụng các công cụ để bổ sung cho điểm mạnh và điểm yếu của bản thân. Chúng ta sử dụng búa để tăng cường sức mạnh của mình - hãy thử đóng đinh bằng tay không - nhưng chúng ta phải có một sức mạnh nhất định, một mức độ chính xác nhất định, một kỷ luật và một kỹ năng nhất định để sử dụng nó.[119]

Vì thế, một kinh nghiệm tuy xưa cũ nhưng không hề lỗi thời: “Biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng”, tức là biết nắm bắt được những khả năng và những hạn chế của AI và biết mình đang sử dụng AI để làm gì. AI có thể là một công cụ rất thông minh và hiệu quả, nhưng nó không phải hữu thể xét như là một nhân vị nên nó không thể có được khả năng chọn lựa tốt xấu và chịu trách nhiệm cho hành động. Chỉ có con người xét như là một nhân vị mới có quyền đó. Biết và sử dụng đúng, AI mới có thể giúp phát triển con người đến mức cao nhất, mức độ mà chưa từng có một công cụ nào làm được như thế trong lịch sử. Bởi lẽ, về cơ bản AI không phải là một vấn đề, nhưng là một cơ hội. “Mặt tích cực của những công nghệ này lớn hơn mặt tiêu cực của chúng, việc đến được kết thúc có hậu đó thường được bao hàm rất nhiều thử thách và khổ nạn.”[120] Trong mọi trường hợp, vẫn nên lưu ý rằng con người là trung tâm; AI phải được tạo ra vì con người, chứ không phải ngược lại. Đồng thời, là một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan nên con người cũng buộc phải mang lấy trách nhiệm cho cuộc sống của mình. Thật vậy, “sự trỗi dậy của AI đặt ra mối nguy hiểm hiện sinh cho nhân loại không phải vì Trí tuệ nhân tạo của máy tính mà vì những thiếu sót của chính chúng ta.”[121] Hơn nữa, “công nghệ tân kỳ thường dẫn đến những thảm họa lịch sử, không phải vì bản chất của chúng là xấu, mà vì cần có thời gian để con người học cách sử dụng chúng một cách khôn ngoan.”[122] Do đó, AI phát triển thì con người cũng cần phải phát triển để thích nghi. “Rượu mới phải cần bầu da mới”, “người tạo ra hoặc người sử dụng AI, không chỉ cần học hỏi cải tiến, mà còn phải không ngừng hoán cải, đổi mới suy nghĩ và trái tim theo các giá trị Tin Mừng.”[123]

3.2 Áp dụng Trí tuệ nhân tạo vào mục vụ dưới góc nhìn mục tử tương lai

Trí tuệ nhân tạo là công cụ rất hữu ích cho cuộc sống và cho công việc của con người trong thế giới ngày nay. Nó được sử dụng trong hầu hết mọi lĩnh vực, mọi cơ quan, tổ chức. Cách riêng, đối với Giáo Hội, AI cũng như bao công cụ khác, phát sinh từ chính tiềm năng sáng tạo mà Thiên Chúa ban cho con người, các ứng dụng của AI được Giáo Hội công nhận, sử dụng và khuyến khích con cái mình áp dụng công nghệ này vào nhiệm vụ truyền giáo, nuôi dưỡng Dân Chúa. [124] Tuy nhiên, Giáo Hội vẫn lưu ý con cái mình về tính hai mặt của AI. Trong phiên họp chung Hội nghị thượng đỉnh G7 về Trí tuệ nhân tạo (14/06/2024), ĐTC Phanxicô nhấn mạnh: một đàng AI mang lại rất nhiều lợi ích, đàng khác nó cũng đáng sợ bởi những hậu quả gây ra.[125] Có thể thấy Trí tuệ nhân tạo vừa là một công cụ hấp dẫn nhưng cũng vừa đáng quan ngại. Do đó, vấn đề này đòi hỏi sự suy tư rất nhiều trong từng hoàn cảnh, nhất là trong việc giảng dạy đức tin. Xin đưa ra một thí dụ điển hình khi áp dụng AI vào công việc chuẩn bị bài giảng trong khía cạnh mục vụ của mục tử, như sau:

Để giảng dạy, ta cần vai trò trung gian của ngôn ngữ. Ngày nay, với khả năng xử lý nhuần nhuyễn ngôn ngữ tự nhiên (NLP), AI, nhất là những AI tạo sinh (generative AI) như ChatGPT[126], đã chứng tỏ được ích lợi của mình trước các mục tử trong việc chuẩn bị nội dung bài giảng. Nhờ sử dụng AI, các bản văn Kinh Thánh được giải thích rõ ràng hơn, các mục tử cũng có thêm nhiều nguồn tài liệu tham khảo hơn. AI cung cấp cho giáo sĩ nhiều ý tưởng mới, cách lập luận logic và có cơ hội tiếp cận nhiều quan điểm thần học nhờ khả năng phân tích nguồn dữ liệu lớn không những trong phạm vi thần học mà còn dựa trên xu hướng của nền văn hóa hiện thời. “Các công cụ giải thích do AI điều khiển có thể phân tích các văn bản Kinh Thánh bằng ngôn ngữ gốc của chúng, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về bối cảnh lịch sử hoặc sắc thái văn bản mà nếu không có AI, chúng có thể bị bỏ qua.”[127]

Tuy nhiên, AI cũng chỉ là một phương tiện. Bài giảng mà chúng soạn thảo chỉ đơn thuần là thao tác của một cỗ máy vô tri. Do đó, chắc chắn sẽ thiếu chiều sâu cảm xúc đến từ trải nghiệm sống và sự suy ngẫm cầu nguyện của mục tử.[128] Điều này đã được ĐTC Phanxicô đặc biệt nhấn mạnh trong số 20 của Thông điệp Dilexit nos - Người đã yêu thương chúng ta, ban hành 24/10/2024:

Trong thời đại Trí tuệ nhân tạo này, chúng ta không thể quên rằng thi ca và tình yêu thật cần thiết để cứu nhân loại chúng ta. Sẽ không có thuật toán nào nắm bắt được, chẳng hạn, nỗi hoài vọng mà tất cả chúng ta đều cảm thấy, bất kể tuổi tác và bất kể ta đang sống ở đâu, khi chúng ta nhớ lại lần đầu tiên mình dùng một cái nĩa để dán mép vỏ những chiếc bánh nhân mà ta giúp mẹ hay bà của mình làm ở nhà. […] Tất cả những điều nhỏ nhặt này, vốn dĩ bình thường, nhưng lại phi thường đối với chúng ta, không bao giờ các thuật toán có thể nắm bắt được.[129]

Quả vậy, giảng dạy là hoạt động trung tâm của Giáo Hội. Chính Đức Kitô đã ban lệnh truyền này cho các môn đệ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,19-20). Giảng dạy ở đây không chỉ đơn thuần là truyền đạt kiến thức để có một cái biết của lý trí, nhưng còn là truyền đạt một đức tin. Thánh Phaolô nói: “Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng là nghe công bố lời Đức Kitô” (Rm 10,17). Đức tin không đồng nghĩa với kiến thức. Từ đức tin đến kiến thức có một khoảng cách rất lớn. Để có được kiến thức, ta cần học tập nghiên cứu còn để có được đức tin, ta phải đi vào một mối tương quan liên vị, một cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Về điều này, một cỗ máy như AI thì không thể. Những suy luận để cho ra bài giảng của chúng chỉ là những thuật toán logic. Do đó, một tư tưởng của toán học thì hoàn toàn trái ngược với tư tưởng của con tim. Jean Baptiste Edart đã phân tích:

Triết gia Martin Heidegger phân biệt tư tưởng toán học với tư tưởng chiêm niệm. Tư duy toán học tương ứng với khả năng thiết lập liên kết giữa các yếu tố khác nhau, chẳng hạn như thuật toán có thể làm như vậy. Đó là trí tuệ của AI. Tư duy chiêm niệm có khả năng nhìn để thấy vượt ra ngoài những gì đã biết, để khám phá ý nghĩa. Tư duy chiêm niệm được soi sáng và hướng dẫn bởi ân sủng. Không bao giờ Gioan Tẩy Giả có thể nhận thấy trong Chúa Giêsu là Chiên Thiên Chúa bằng tư duy toán học.[130]

Hơn thế nữa, việc giảng dạy của mục tử còn là truyền thông một đời sống. Đó là kinh nghiệm cuộc sống, kinh nghiệm đức tin, điều mà “Thánh Đaminh mời gọi anh em của mình giảng dạy những gì họ đã chiêm ngắm. Thánh Grêgôriô Cả nhắc rằng lời thánh thiêng và người đọc chúng cùng nhau lớn lên.”[131] Do đó, bài giảng phải xuất phát từ hành trình tâm linh của mục tử và sự thấu hiểu về nhu cầu thiêng liêng của đàn chiên. Đồng thời bài giảng cũng phải là một cảm nghiệm thiêng liêng thực sự khi mục tử đối diện với một ngôi vị, chứ không phải chỉ là những luận lý phân tích, tổng hợp từ những dòng chữ, những câu từ Kinh Thánh. Nói như Rudolf Bultmann (1884-1976): “[Đây quả thực] là một cuộc gặp gỡ hiện sinh. […] Chiều kích hiện sinh này liên quan đến việc đặt ra những câu hỏi cơ bản về bản chất của bản thân và hiện hữu của con người.”[132] Vì vậy, dù cho bản văn lời Chúa có lặp đi lặp lại theo từng chu kỳ mỗi năm đi nữa thì nhờ suy tư, cảm nghiệm, gặp gỡ và đối thoại với một Ngôi Vị, bài giảng của mục tử vẫn sẽ luôn mới mẻ và độc đáo. Thêm vào đó, chiều kích hiện sinh này cũng là điều nói lên “cá tính” của một ngôi vị - thứ mà AI không thể nào có, vì nó là phi ngôi vị. Do đó, nếu các linh mục biết xác định đâu là vị trí AI sẽ đảm trách trong quá trình soạn bài giảng của mình, thì sự có mặt của AI như ChatGPT quả là một phương tiện hỗ trợ tuyệt vời cho các linh mục. Bằng không, khi để cho AI tham gia quá nhiều vào công việc giảng dạy, mục tử sẽ có nguy cơ đánh mất đi tính độc đáo cá nhân của bài giảng, biến bài giảng thành một “sản phẩm” hơn là một cảm nghiệm thiêng liêng.[133]

Đồng thời, cũng nên nhớ rằng rao giảng chân lý thuộc về quyền của Giáo Hội qua sự thừa kế của các thánh Tông đồ, dưới sự dẫn dắt của Chúa Thánh Thần. Tuy nhiên, thế giới luôn có những tiên tri giả và giờ đây, chúng ta có “tiên tri nhân tạo”. AI cũng soạn bài giảng như linh mục, nhưng nó chỉ là một công cụ do các lập trình viên làm nên, do các công ty phần mềm đứng ra phụ trách. Vì thế, AI hoàn toàn có khả năng mắc phải sai lầm khi rao giảng chân lý đức tin, dẫn đến lạc giáo. Thêm vào đó, dù cho AI có viết bài giảng hay tới đâu đi nữa thì bài giảng của nó cũng không bằng lời chứng của một con người bằng xương bằng thịt về Chúa Kitô. Và dù cho AI có thể gợi ý các đoạn Kinh Thánh có liên quan hoặc làm nổi bật các chủ đề quan trọng, nhưng nó cũng không thể sao chép vai trò của mục tử như một nhà lãnh đạo tinh thần, người phân biệt được tiếng nói của Thiên Chúa trong quá trình chuẩn bị bài giảng.[134] Chỉ có đức tin mới làm cho bài giảng trở nên sống động, như lời của Thánh Gioan Tông Đồ: “Điều vẫn có ngay từ lúc khởi đầu, điều chúng tôi đã nghe, điều chúng tôi đã thấy tận mắt, điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng và tay chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống. Quả vậy, sự sống đã được tỏ bày, chúng tôi đã thấy và đã làm chứng, chúng tôi loan báo cho anh em sự sống đời đời: sự sống ấy vẫn hướng về Chúa Cha và nay đã được tỏ bày cho chúng tôi” (1Ga 1,1-2). Nếu linh mục sử dụng bài giảng 100% của AI thì lúc này câu hỏi đặt ra: Đâu là trách nhiệm và vai trò của linh mục xét như một chứng nhân của niềm tin, chứng nhân của niềm hy vọng?

Qua đây ta thấy, thời đại mà chúng ta đang sống là thời đại của tri thức khoa học. Tri thức khoa học đang chiếm ưu thế bởi khả năng thực dụng của nó. Sự xuất hiện của AI như chắp thêm đôi cánh cho khoa học bay cao hơn, mở ra những viễn cảnh nghiên cứu mới, đồng thời cũng đáp ứng được nhu cầu thực dụng nhanh gọn lẹ của con người. Điều này tốt, nhưng không thể áp dụng một cách máy móc vào Giáo Hội, đặc biệt là trong công việc giảng dạy đức tin. Đức tin không phải là tri thức, không phải tổng hợp càng nhanh, càng nhiều tri thức thì đức tin càng lớn mạnh nhưng đức tin là một hành trình gặp gỡ, hành trình tiệm tiến và lâu dài nhờ ơn Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Tuy nhiên, nếu biết tận dụng AI như một công cụ thì những ý tưởng do AI đề xuất suy tư về bài giảng sẽ là một ưu điểm tích cực. Vì lẽ AI là một đầy tớ tốt, nhưng lại là một ông chủ xấu, như lời ĐTC Phanxicô: “Trí tuệ nhân tạo trước hết là một công cụ. Và tất nhiên, lợi ích hay tác hại mà nó mang lại sẽ tuỳ thuộc vào việc sử dụng nó.”[135]

 

Kết luận

Qua những gì đã “tìm” và “hiểu”, chúng ta có được một cái nhìn tổng thể về những gì Trí tuệ nhân tạo đã tác động đến con người xét như là một nhân vị. Đó là một kinh nghiệm “biết địch biết ta” để “trăm trận trăm thắng”. Trước hết, để “biết địch”, chúng ta đã rảo qua những nét chính về khoa học công nghệ AI, từ định nghĩa, cách thức hoạt động, đến lịch sử và hệ quả. Sau nữa, để “biết ta”, chúng ta đã nhìn lại một cách tổng quan về ý niệm nhân vị trong lịch sử triết học, từ đó nhận ra nhân vị quý giá biết bao, nhận ra AI đang tác động đến nhân vị những gì, mặt tích cực ra sao và mặt tiêu cực là như thế nào. Từ đó, người viết nêu khái quát một số nhận định, đưa ra lời giải đáp cho vấn nạn đặt ra ở đầu bài. Đồng thời, đem tất cả những gì đã “tìm” và “hiểu” áp dụng vào khía cạnh mục vụ, đặc biệt là công việc soạn thảo bài giảng.

Khi nhìn lại như thế, chúng ta thấy được rằng một mặt Trí tuệ nhân tạo đã mang lại cho con người nhiều điều hữu ích; mặt khác nó cũng đem đến không ít những rủi ro, những mối nguy mà con người có thể gặp phải. Tuy nhiên, là con người xét như một nhân vị có lý trí, ý chí tự do và tương quan, thì vấn đề mà chúng ta phải đối mặt trong thế giới ngày nay không phải là nỗi lo sợ trước sự phát triển như vũ bão của AI, nhưng là làm thế nào để con người xét như một nhân vị có đủ bản lĩnh và khả năng làm chủ AI. Do đó, để được điều này, chúng ta cần nỗ lực đào luyện cho mình một bộ óc khôn ngoan, một con tim liêm khiết khi sử dụng các dạng thức Trí tuệ nhân tạo. Nói như lời ĐTC Phanxicô: “Người sử dụng ở mọi lứa tuổi, nhất là giới trẻ, cần phát triển khả năng phân định trong việc sử dụng dữ liệu và nội dung thu thập trên trang web hoặc do hệ thống Trí tuệ nhân tạo tạo ra. […] sinh viên và các chuyên gia [cần] nắm bắt các khía cạnh xã hội và đạo đức của việc phát triển và sử dụng công nghệ.”[136] Nếu không, con người sẽ bị lệ thuộc vào AI, dần dà sẽ không còn khả năng suy tư, phản biện và kết cục trở thành nô lệ của AI.

Để kết lại, xin mượn lời nhắn gửi của ĐTC Bênêđictô XVI:

“Tiến bộ [AI] đem đến nhiều triển vọng cho điều tốt, nhưng nó cũng mở ra những triển vọng đáng kinh sợ cho sự dữ - những triển vọng mà trước đó không hề tồn tại. Chúng ta tất cả đã chứng kiến cách thế trong đó tiến bộ, trong bàn tay sai trái, có thể trở thành và thực sự đã trở thành một tiến bộ kinh hoàng trong sự ác. Nếu tiến bộ kỹ thuật không đi kèm với tiến bộ tương ứng trong việc hình thành luân lý con người, trong sự tăng trưởng nội tâm (x. Eph 3:16; 2 Cor 4:16), thì nó chẳng là tiến bộ gì cả, nhưng là một mối đe dọa cho con người và cho thế giới.”[137]

Ước gì một chút tìm hiểu, nghiên cứu nhỏ bé này của người viết góp phần vào công cuộc loan báo Tin Mừng và làm thăng tiến con người trong xã hội.

 

Tài liệu tham khảo

1. Kinh thánh và Văn kiện/Huấn quyền

Bênêđictô XVI. Thông điệp Spe Salvi – Về niềm hy vọng Kitô giáo, 30/11/2007.

Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục. Văn kiện Antiqua et Nova: Ghi chú về mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí khôn con người, 28/01/2025.

Kinh thánh, ấn bản 2011, bản dịch và chú thích do Nhóm PDCGKPV. Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2011.

Phanxicô. Thông điệp Dilexit Nos, 24/10/2024.

Phanxicô. Sứ điệp Trí Tuệ Nhân Tạo và Hòa Bình, 01/01/2024.

Phanxicô. Sứ điệp Trí tuệ nhân tạo và Sự khôn ngoan của Con tim: Vì một truyền thông nhân bản trọn vẹn, 24/01/2024.

Phanxicô. Tông Huấn Christus Vivit, 25/03/2019.

2. Sách

Antôn Nguyễn Bình. Triết học Ngôn ngữ. Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, 2025.

Aquinas, Thomas. Tổng luận Thần học - Phần II. Trần Ngọc Châu dịch. NXB Phương Đông, 2017.

Boddington, Paula. AI and Ethics. Switzerland: Springer Nature, 2021. https://doi.org/10.1007/s43681-020-00017-0

Buber, Martin. I and Thou. trans. Walter Kaufman. New York: Charles Scribner’s Sons, 1970.

Buchanan, Ben and Imbrie, Andrew. The New Fire. Cambridge, Massachusetts: The MIT Press, 2022. Truy cập ngày 28/12/2024. https://reader.z library.sk/read/c7213b8efef8cef1441bf16b5c0494bfe3cb362ef5597c54a9edc72d361f45e2/21004300/fc9c62/the-new-fire-war-peace-and-democracy-in-the-age-of-ai.html?download_location=https%3A%2F%2Fz library.sk%2Fdl%2F21004300%2F791cbb.

Hawking, Stephen. Brief Answers to the Big Questions. London: John Murray, 2018. Truy cập ngày 19/08/2024. https://reader.z-library.sk/read/a062394ad29e5267fd5fc9641b71509b723e37757dd6c54f68266230f636d750/17503673/4065db/brief-answers-to-the-big-questions.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F17503673%2F43dc20,

Harari, Yuval Noah. 21 Lessons for the 21st Century. Dương Ngọc Trà dịch. Hà Nội: NXB Nhã Nam - Thế Giới, 2019.

Harari, Yuval Noah. Nexus – Lược sử của những mạng lưới thông tin từ Thời đại Đồ đá đến Trí tuệ Nhân tạo. Bùi Thị Hồng Ninh, Nguyễn Quốc Tuấn Trung dịch. Hà Nội: NXB Thế Giới, 2024.

Heidegger, Martin. Gelassenheit. Pfullingen: Günther Neske Verlag, 1959.

Joseph Tân Nguyễn. Đạo đức học - Luật tự nhiên và phẩm giá con người. Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2023.

Kelly, Matthew. Tái khám phá Đạo Công Giáo. ĐCV Bùi Chu chuyển ngữ. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015.

Kissinger, Henry A., Schmidt, Eric and Huttenlocher, Daniel. The Age of AI and Our Human Future. Great Britain – London: John Murray, 2021. Truy cập ngày 12/05/2024. https://reader.z library.sk/read/98f868ae413e6b0c96817278233bbc7d493df5552088bb10b7164e371e842d24/18349887/bb96d5/ the-age-of-ai-and-our-human-future.html?download_location=https%3A%2F%2Fz library.sk%2Fdl%2F18349887%2F4150dd.

Lévinas, Emmanuel. Totality and Infinity: An Essay on Exteriority. trans. Alphonso Lingis. Pittsburgh, PA.: Duquesne University Press, 1969.

Lévinas, Emmanuel. Ethics and Infinity: Conversations with Philippe Nemo. trans. Richard A. Cohen. Pittsburgh, PA.: Duquesne University Press, 1985, 7 th printing 1996.

Mounier, Emmanuel. Le Personnalisme. Đào Quốc Minh dịch. Hà Nội: NXB Lao Động, 2024.

Milano, Andrea. Persona in Teologia. Napoli: Dehoniane, 1984. Trong Nguyễn Hoài Lâm. Hữu Thể Học. ĐCV Sao Biển Nha Trang, 2024.

Nguyễn Hoài Lâm. Hữu Thể Học. ĐCV Sao Biển Nha Trang, 2024.

Nguyễn Hoài Lâm. Hermeneutics - Dẫn vào Thông Diễn Học. ĐCV Sao Biển Nha Trang, 2025.

Okamoto, Yuichiro. Các nhà triết học trên thế giới đang suy tư chuyện gì. Nguyễn Hữu Luân dịch. Hà Nội: NXB Dân Trí, 2023.

Phêrô Trần Ngọc Anh. Nhân học Kitô giáo. tập I – Tạo dựng. Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018.

Phạm Đình Nghiệm. Nhập môn Logic học. TP Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, 2013.

Russell, Stuart J. and Norvig, Peter. Artificial Intelligence: A Modern Approach. Third Edition. United States: Pearson Education, 2010.

Reese, Byron. The Fourth Age. New York: Atria Books, 2018. Truy cập ngày 19/08/2024, https://reader.z library.sk/read/039015ffdcea04c53374681cbc65547e20540dd86363dbf244dfa3dc8df29410/25097292/5d30a7/t he-fourth-age-smart-robots-conscious-computers-and-the-future-of humanity.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F25097292%2Fdb6fec.

Schwab, Klaus. Cuộc Cách mạng Công nghiệp Lần Thứ Tư. Bộ Ngoại Giao dịch. Hà Nội: NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, 2018.

3. Tạp chí

Bonnewijn, Olivier. “La sagesse des algorithmes”. Phaolô Ngô Đình Sĩ chủ biên. Lời Vào Đất 1 (tháng 9 năm 2024): 167-180. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024.

Edart, Jean Baptiste. “L’IA et la foi.” Phaolô Ngô Đình Sĩ chủ biên. Lời Vào Đất 1 (tháng 9 năm 2024): 181-198. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024.

J.B Lê Đình Phương, C.Sr.R. “AI: Rượu mới bầu da cũ: Thách đố và Cơ hội từ quan điểm luân lý Công giáo.” Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên. Lời Vào Đất 1 (tháng 9 năm 2024): 199-215. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024.

Schoot, Henk J.M. “Con người là hình ảnh Thiên Chúa theo Thánh Tôma Aquinô.” Thời sự thần học 101 (tháng 8 năm 2023): 114-133.

Thân Văn Tường. Gabriel Marcel hay con người là một “huyền nhiệm”. Tạp chí Đại Học Viện Đại học Huế số 18 (1960). Trong Phêrô Trần Ngọc Anh. Nhân học Kitô giáo. tập I – Tạo dựng. Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018.

Thomas Hoang, Péridy, Laurent và Vermersch, Dominique. “L’IA: d’où vient-elle? Où va-t-elle? Une brève entrée en matière.” Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên.  Lời Vào Đất 1 (tháng 9 năm 2024): 149-165. Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024.

Turing, Alan M. “Computing Machinery and Intelligence”. Mind, vol. 59, no. 236 (October 1950): 433-460. United Kingdom: Oxford University Press, 1950. https://doi.org/10.1093/mind/LIX.236.433

4. Websites

AITopics. “A brief history of AI”. Accessed Dec 21, 2024. https://aitopics.org/misc/brief-history

GM Phêrô Nguyễn Văn Khảm. “Kitô Hữu Và Trí Tuệ Nhân Tạo (AI)”. Truy cập ngày 11/06/2024. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/kito-huu-va-tri-tue-nhan-tao-ai

La Croix. “Entretien Paolo Benanti: Pour le pape François, l’intelligence artificielle est une question sociale.” Truy cập ngày 26/07/2024. https://www.la-croix.com/religion/pape-au-g7-pour-francois-l-intelligence-artificielle-est-une-question-sociale-20240613

Micae Rua Trần Phạm Hoàng Gia Thi, SDB. “Trí tuệ nhân tạo và Giáo Hội: AI đang định hình công tác mục vụ như thế nào?” Truy cập ngày 08/12/2024. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tri-tue-nhan-tao-va-giao-hoi ai-dang-dinh-hinh-cong-tac-muc-vu-nhu-the-nao

Michael Chen, What Is Big Data?  Truy cập ngày 24/11/2024. https://www.oracle.com/big-data/what-is-big-data/

Pope Francis. “Address of his holiness Pope Francis.” Pope Francis attends the G7 Session on Artificial Intelligence. Accessed June 14, 2024. https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2024/june/documents/20240614-g7-intelligenza artificiale.html

 

 

 

[1] X. Stuart J. Russell and Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach, Third Edition, (United States: Pearson Education, 2010), 5 – 7 và AITopics, “A brief history of AI”, accessed Dec 21, 2024, https://aitopics.org/misc/brief-history

[2] Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova: Ghi chú về mối tương quan giữa Trí tuệ nhân tạo và Trí khôn con người, 28/01/2025, số 4.

[3] Yuval Noah Harari, Nexus – Lược sử của những mạng lưới thông tin từ Thời đại Đồ đá đến Trí tuệ Nhân tạo, Bùi Thị Hồng Ninh, Nguyễn Quốc Tuấn Trung dịch, (Hà Nội: NXB Thế Giới, 2024), 20.

[4] Về mặt hình thức, trong bài tiểu luận này, trước hết, vì AI là một ngành riêng biệt với các kỹ thuật và các nguyên tắc đặc thù, do đó người viết lựa chọn cách viết hoa cho thuật ngữ “Trí tuệ nhân tạo”. Sau nữa, người viết sử dụng thuật ngữ “máy móc” khi nói về toàn bộ phức hợp phần cứng và phần mềm, hiển hiện được dưới dạng vật lý. Người viết cũng sử dụng thuật ngữ “thuật toán”, khi muốn tập trung nhiều hơn vào khía cạnh phần mềm. Đối với thuật ngữ “AI”, người viết sử dụng khi muốn nhấn mạnh vào khả năng tự học và thay đổi của thuật toán. Còn các thuật ngữ khác như “robot”, nhằm nói đến các trường hợp khi một máy tính hoạt động và vận hành trong môi trường vật lý. Thuật ngữ này khác với thuật ngữ “bot”, dùng để chỉ các thuật toán hoạt động chủ yếu trong môi trường kỹ thuật số. Một cách dễ hiểu có thể nói, điểm khác nhau là “bot” có thể trò chuyện, hướng dẫn, cung cấp thông tin, thậm chí đánh lừa chúng ta bằng những thông tin giả, trong khi “robot” thì có thể hút bụi trong phòng. Ngoài ra, về tài liệu nghiên cứu, các sách báo tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức được sử dụng trong tiểu luận này đa phần là ấn bản điện tử (pdf.) nên có thể gặp đôi chút khó khăn khi tra cứu.

[5] Stuart J. Russell and Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach, 2.

[6] X. Alan Mathison Turing, “Computing Machinery and Intelligence”, Mind, vol. 59, no. 236 (October 1950): 433-460, (United Kingdom: Oxford University Press, 1950), https://doi.org/10.1093/mind/LIX.236.433

[7] Phanxicô, Sứ điệp Trí Tuệ Nhân Tạo và Hòa Bình, 01/01/2024, số 2.

[8] X. Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova, 28/01/2025, số 8.

[9] Ibid., số 9.

[10] Yuichiro Okamoto, Các nhà triết học trên thế giới đang suy tư chuyện gì, Nguyễn Hữu Luân dịch, (Hà Nội: NXB Dân Trí, 2023), 102 – 103.

[11] Trước đây, trong những năm 1980 – 1990, các thuật toán không thể tự học được nhiều, hầu hết những gì các thuật toán chơi cờ biết đều do các lập trình viên chỉ dạy cho nó. Những thuật toán sơ khai này đánh bại các kỳ thủ cờ vua đơn giản là vì thuật toán có thể tính toán nhiều nước đi hơn và đánh giá nhiều vị trí hơn con người. Khả năng của các thuật toán đó thực sự vẫn còn rất hạn chế. Chúng dựa vào con người để biết những “bí mật” của trò chơi, nếu các lập trình viên không biết thì các thuật toán mà họ tạo ra cũng không thể biết.

[12] Học máy (Machine Learning) là một tập hợp con của AI nhằm dạy máy tính thực hiện các tác vụ mà không cần lập trình rõ ràng. Kỹ thuật này giúp máy tính “học” như cách bắt chước con người học. Tức là, thông qua các quy luật của thuật toán trên các tập dữ liệu đầu vào, máy móc sẽ học dần dần rồi cải thiện độ chính xác của các hành động theo thời gian mỗi khi tiếp xúc với dữ liệu mới. Điều này có nghĩa là AI bắt đầu cuộc sống của nó như một “thuật toán trẻ con,” có rất nhiều tiềm năng và sức mạnh tính toán nhưng không biết nhiều điều. Cha mẹ con người của AI chỉ cung cấp cho nó khả năng học hỏi và truy cập vào một thế giới dữ liệu. Sau đó, họ để thuật toán trẻ con này tự khám phá thế giới. Ví dụ như công cụ tìm kiếm Google. Khi chúng ta tìm kiếm một từ khóa, nó sẽ trả cho chúng ta rất nhiều kết quả. Khi chúng ta dành nhiều thời gian hơn để xem một thông tin nào đó thì nó hiểu đây là thông tin hữu ích. Nếu sau này chúng ta tìm lại từ khóa đó nó sẽ tự điều chỉnh để đưa ra các kết quả ngày càng chuẩn xác hơn. Như vậy, học máy (ML) là khả năng máy tính thực hiện các tác vụ mà không được lập trình rõ ràng, nhưng xét cho cùng máy tính vẫn tiếp tục suy nghĩ và hành động kiểu máy móc. Do đó, mô hình Học sâu (Deep Learning) ra đời để khắc phục nhược điểm này.

[13] Học sâu (Deep Learning) là mô hình tạo ra và sử dụng một mạng nơ-ron thần kinh nhân tạo (Artificial neural network) có nhiều lớp với chức năng tập trung vào việc học hỏi và cải thiện để cố gắng đưa ra những kết luận về một sự vật, sự việc tương tự cách mà não người tư duy.  Mạng lưới thần kinh sâu là những cấu trúc phức tạp, nhiều lớp cho phép dữ liệu được truyền giữa các nút (như nơ-ron) theo những cách có liên kết cao. Kết quả là dữ liệu trải qua một quá trình chuyển đổi phi tuyến tính dần dần trở nên trừu tượng. Từ đó, DL có thể tạo ra những ý tưởng mới. Khả năng của DL là tự “học” và tự “cải thiện” thông qua việc đối chiếu với chính “kinh nghiệm” của mình.  Ứng dụng của AI này rất rộng rãi trong thực tế, chẳng hạn trong lĩnh vực xe ô tô tự lái: Học sâu cho phép những chiếc ô tô này có thể học hỏi từ cả quá trình mô phỏng lái xe và kịch bản lái xe trong thế giới thực.

[14] X. Yuval, Nexus – Lược sử của những mạng lưới thông tin từ Thời đại Đồ đá đến Trí tuệ Nhân tạo, 358.

[15] X. Stuart J. Russell and Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach, 5 – 7 và AITopics, “A brief history of AI”, accessed Dec 21, 2024, https://aitopics.org/misc/brief-history

[16] X. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn Logic học, (TP Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, 2013), 16.

[17] X. Antôn Nguyễn Bình, Triết học Ngôn ngữ, (Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, 2025), 88-89.

[18] Antôn Nguyễn Bình, Triết học Ngôn ngữ, (Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang, 2025), 90.

[19] X. Stuart J. Russell and Peter Norvig, Artificial Intelligence: A Modern Approach, 5 – 6; x. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn Logic học, 17.

[20] X. Phạm Đình Nghiệm, Nhập môn Logic học, 17.

[21] Yuval, Nexus, 242.

[22] X. Alan M. Turing, “Computing Machinery and Intelligence”, Mind 59: 433–460, (United Kingdom: Oxford University Press, 1950), https://doi.org/10.1093/mind/LIX.236.433

[23] Năng lực tính toán (ở thời điểm hiện nay) không chỉ là tính toán bằng cách sử dụng các hệ thống quy tắc để suy luận như trong hệ thống chuyên gia mà còn có thể tính toán để khám phá ra những cái mới.

[24] Khái niệm “Dữ liệu lớn” đề cập đến các tập dữ liệu cực kỳ lớn và phức tạp đến nỗi không thể dễ dàng quản lý hoặc phân tích bằng các công cụ xử lý dữ liệu truyền thống. Bởi lẽ với sự phát triển của Internet và các thiết bị công nghệ, dữ liệu trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta liên tục được thu thập và tổng hợp. Lượng dữ liệu khổng lồ này sẽ là cơ sở cho sự phát triển của Deep learning. (x. Michael Chen, What Is Big Data?, truy cập ngày 24/11/2024, https://www.oracle.com/big-data/what-is-big-data/)

[25] Như đã nói ở phần trên, học sâu là khả năng AI có thể tự học mà không cần đến sự hướng dẫn (lập trình sẵn) của con người.

[26] Henry A. Kissinger, Eric Schmidt and Daniel Huttenlocher, The Age of AI and Our Human Future, (Great Britain – London: John Murray (Publishers), 2021), truy cập ngày 12/05/2024, https://reader.z-library.sk/read/98f868ae413e6b0c96817278233bbc7d493df5552088bb10b7164e371e842d24/18349887/bb96d5/the-age-of-ai-and-our-human-future.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F18349887%2F4150dd. Người viết lược dịch từ: “Today, a new epoch beckons. In it, once again, technology will transform knowledge, discovery, communication, and individual thought”.

[27] X. Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova, 28/01/2025, số 4.

[28] X. Klaus Schwab, Cuộc Cách mạng Công nghiệp Lần Thứ Tư, Bộ Ngoại Giao dịch, (Hà Nội: NXB Chính Trị Quốc Gia Sự Thật, 2018), 5.

[29] Yuval, Nexus, 242.

[30] Yuichiro Okamoto, Các nhà triết học trên thế giới đang suy tư chuyện gì, 103.

[31] Giống như huyền thoại Prometheus đánh cắp lửa từ các vị thần, tham vọng Prometheus là tham vọng vượt qua các ranh giới và tìm cách đạt được điều gì đó vĩ đại, ngay cả khi điều đó đòi hỏi việc phải trả giá đắt. (Xem Thomas Hoang, Laurent Péridy, Dominique Vermersch, “L’IA: d’où vient-elle? Où va-t-elle? Une brève entrée en matière”, Lời Vào Đất 1: 149)

[32] Henry A. Kissinger, Eric Schmidt & Daniel Huttenlocher, The Age of AI and Our Human Future. Người viết dịch từ: “It is a human creation, reflecting human-designed processes on human-created machines. Yet in some instances, at awesome scale and speed, it produces results approximating those that have, until now, only been reached through human reason. Sometimes, its results astound.”

[33] Yuval, Nexus, 22.

[34] Thomas Hoang, Laurent Péridy, Dominique Vermersch, “L’IA: d’où vient-elle? Où va-t-elle? Une brève entrée en matière”, Lời Vào Đất 1: 164.

[35] Stephen Hawking, Brief Answers to the Big Questions, (London: John Murray, 2018), truy cập ngày 19/08/2024, https://reader.z-library.sk/read/a062394ad29e5267fd5fc9641b71509b723e37757dd6c54f68266230f636d750/17503673/4065db/brief-answers-to-the-big-questions.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F17503673%2F43dc20. Người viết dịch từ: “Used as a toolkit, AI can augment our existing intelligence to open up advances in every area of science and society. However, it will also bring dangers.”

[36] Nhân vị được dịch từ persona, tiếng Latin (person, tiếng Anh/ personne, tiếng Pháp). Thật ra, trong tiếng Việt không có danh từ nào tương đương với từ persona cả. Persona vì thế được dịch khá đa dạng như nhân vị, nhân cách, bản vị, ngôi vị, v.v. (Xem Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, (Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018), 321).

[37] X. Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, (Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018), 323.

[38] Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, 323 - 324.

[39] Người viết dịch từ “Persona est rationalis naturae individua substantia”. Theo đó, persona chỉ áp dụng cho con người có lý trí (rationalis naturae = loài có lý trí) chứ không áp dụng cho động vật mặc dù chúng cũng là substantia. Thêm vào đó, persona là yếu tố phân biệt cá nhân này với cá nhân kia (individua = cá biệt) (x. Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, (Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018), 330).

[40] X. Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, 321.

[41] X. Joseph Tân Nguyễn, Đạo đức học - Luật tự nhiên và phẩm giá con người, (Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2023), 111 - 112.

[42] X. Thân Văn Tường, Gabriel Marcel hay con người là một “huyền nhiệm”, Tạp chí Đại Học, Viện Đại học Huế, số 18, 1960, 49-72, trích lại trong Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, (Đồng Nai: NXB Đồng Nai, 2018), 452 - 454.

[43] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme - Thuyết Nhân Vị, Đào Quốc Minh dịch, (Hà Nội: NXB Lao Động, 2024), 22.

[44] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme, 91.

[45] Ibid., 152.

[46] Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, (ĐCV Sao Biển Nha Trang, 2024), 154.

[47] Martin Buber, I and Thou, trans. Walter Kaufman (New York: Charles Scribner’s Sons, 1970), 54. Dịch từ: “There is no I as such but only the I of the basic word I-You and the I of the basic word I-It.”

[48] X. Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, 154.

[49] Emmanuel Lévinas, Totality and Infinity: An Essay on Exteriority, trans. Alphonso Lingis, (Pittsburgh, PA.: Duquesne University Press, 1969), 47. Người viết dịch từ: “The latter relationship commands the first. I cannot disentangle myself from society with the Other.”

[50] Emmanuel Lévinas, Ethics and Infinity: Conversations with Philippe Nemo, trans. Richard A. Cohen (Pittsburgh, PA.: Duquesne University Press, 1985, 7 th printing 1996), 77. Người viết dịch từ: “The true union or true togetherness is not a togetherness os synthesis, but a togetherness of face to face”.

[51] Ngôi vị (persona) là một sản phẩm của Kitô giáo. Trước thời các giáo phụ, triết học Hy Lạp vẫn có khái niệm hypostasis hay prosôpon, song chỉ mang chiều kích hữu ngã. Xem Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, 139.

[52] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme, 36 - 37.

[53] Andrea Milano, Persona in Teologia, (Napoli: Dehoniane, 1984), 90 trích trong Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, 141.

[54] Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, 142.

[55] X. Ibid., 145. Xem thêm: “persona significa quod est perfectissimum in tota natura” trong S.Th. I, q.20, a.3.

[56] Henk J.M. Schoot, “Con người là hình ảnh Thiên Chúa theo Thánh Tôma Aquinô”, Thời sự thần học 101 (2023), 119.

[57] Thomas d’Aquin, Tổng luận Thần học - Phần II, dịch giả Trần Ngọc Châu (NXB Phương Đông, 2017), (ST, I-II, lời dẫn).

[58] X. Phêrô Trần Ngọc Anh, Nhân học Kitô giáo, tập I – Tạo dựng, 310.

[59] X. Ibid., 309.

[60] Olivier Bonnewijn, “La sagesse des algorithmes”, Phaolô Ngô Đình Sĩ dịch, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 167.

[61] Yuval, Nexus, 368.

[62] Ibid., 263.

[63] Một mặt AI giúp con người tiếp cận thông tin nhanh và nhiều hơn, nhưng mặt khác AI cũng làm cho lý trí con người dễ trở nên lười vận động hơn khi đặt ra những câu hỏi, thí dụ, tại sao tôi phải cất công tìm kiếm nghiên cứu khi tôi có thể chỉ cần hỏi trợ thủ của mình? Tại sao tôi phải tốn hàng giờ để đọc sách báo mới biết được tin tức khi tôi có thể hỏi trợ thủ AI của mình trong tích tắc? Tại sao tôi phải xem quảng cáo nữa khi trợ thủ AI đã biết sản phẩm nào là tốt nhất cho tôi, v.v.

[64] Matthew Kelly, Rediscover Catholicism - Tái khám phá Đạo Công Giáo, ĐCV Bùi Chu chuyển ngữ, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2015), 203-204.

[65] Yuval, Nexus, 273 -274.

[66] Ibid., 258.

[67] Olivier Bonnewijn, “La sagesse des algorithmes”, Phaolô Ngô Đình Sĩ dịch, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 168.

[68] Yuval, Nexus, 14.

[69] Yuval, Nexus, 315.

[70] Ibid., 472.

[71] Henry A. Kissinger, Eric Schmidt and Daniel Huttenlocher, The Age of AI and Our Human Future.

[72] Yuval, Nexus, 292.

[73] Byron Reese, The Fourth Age, (New York: Atria Books, 2018), truy cập ngày 19/08/2024, https://reader.z-library.sk/read/039015ffdcea04c53374681cbc65547e20540dd86363dbf244dfa3dc8df29410/25097292/5d30a7/the-fourth-age-smart-robots-conscious-computers-and-the-future-of-humanity.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F25097292%2Fdb6fec. Dịch từ “All of a sudden, we’ve lost a lot of control. We can’t turn off our Internet; we can’t turn off our smartphones; we can’t turn off our computers. You used to ask a smart person a question. Now who do you ask? It starts with g-o, and it’s not God.”

[74] J.B Lê Đình Phương, C.Sr.R., “AI: Rượu mới bầu da cũ: Thách đố và Cơ hội từ quan điểm luân lý Công giáo”, Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024), 203.

[75] Chẳng hạn trong các hệ thống vũ khí tự động, con người trao cho AI quyền tự quyết: AI được phép quyết định bắn hoặc không bắn mà không cần sự can thiệp của con người. Đây không phải là khoa học viễn tưởng, đây là điều đã xảy ra trong cuộc chiến hiện tại giữa Israel và Hamas, giữa Nga và Ukraine.  Đối với AI này, con người chỉ là data, giết một con người chỉ như xóa một data.

[76] Yuval, Nexus, 243.

[77] Henry A. Kissinger, Eric Schmidt & Daniel Huttenlocher, The Age of AI and Our Human Future. Người viết dịch từ: “Artificial intelligence is not human. It does not hope, pray, or feel. Nor does it have awareness or reflective capabilities. It is a human creation, reflecting human-designed processes on human-created machines.”

[78] Olivier Bonnewijn, “La sagesse des algorithmes”, Phaolô Ngô Đình Sĩ dịch, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 169-170.

[79] Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova, 28/01/2025, số 39.

[80] Ibid., số 44.

[81] Olivier Bonnewijn, “La sagesse des algorithmes”, Phaolô Ngô Đình Sĩ dịch, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 171 - 172.

[82] X. Yuval, Nexus, 291.

[83] Yuval, Nexus, 19 - 20.

[84] Yuval, Nexus, 293.

[85] Ibid., 312.

[86] Ibid., 289.

[87] Yuval, Nexus, 296 - 297.

[88] Paula Boddington, AI and Ethics, (Switzerland: Springer Nature, 2021), truy cập ngày 28/09/2024, https://doi.org/10.1007/s43681-020-00017-0 . Người viết dịch từ “Humans should never relinquish moral agency to machines, and machines should be ‘aligned’ with human values; but we also need to consider how broad assumptions about our moral capacities and the capabilities of AI, impact on how we think about AI and ethics.”

[89] Yuval, Nexus, 282.

[90] Về tính tương tác giữa con người – máy móc: Nhờ ứng dụng AI vào các hệ thống trợ lý ảo như Siri, Google Assistant, v.v. thay vì phải học từng nút bấm như trước đây thì nay con người chỉ cần nói điều mình muốn là được.

[91] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme, 48.

[92] X. Allan House và Cathy Brennan, eds., Social Media and Mental Health, (Cambridge, U.K: Cambridge University Press, 2023); trích lại trong Yuval, Nexus, 326.

[93] Yuval Noah Harari, 21 Lessons for the 21st Century, Dương Ngọc Trà dịch, (Hà Nội: NXB Nhã Nam - Thế Giới, 2019), 117.

[94] Emmanuel Lévinas, Totality and Infinity: An Essay on Exteriority, 47. Người viết dịch từ: “The latter relationship commands the first. I cannot disentangle myself from society with the Other”.

[95] X. Nguyễn Hoài Lâm, Hữu Thể Học, 154.

[96] Emmanuel Lévinas, Ethics and Infinity, 77. Người viết dịch từ: “The true union or true togetherness is not a togetherness os synthesis, but a togetherness of face to face”.

[97] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme, 91.

[98] Emmanuel Mounier, Le Personnalisme, 99.

[99] Emmanuel Lévinas, Ethics and Infinity: Conversations with Philippe Nemo, 57.

[100] Ibid., 17. Xem ghi chú của người dịch [Richard A. Cohen].

[101] Emmanuel Lévinas, Ethics and Infinity: Conversations with Philippe Nemo, 67. Người viết dịch từ: “The other as other here is not an object which becomes ours or which become us”.

[102] Emmanuel Lévinas, Totality and Infinity: An Essay in Exteriority, 197. Người viết dịch từ: “The face resists possession, resists my powers.”

[103] Yuval, Nexus, 305.

[104] Chẳng hạn như hệ thống AI “chấm điểm” Tripadvisor. Lợi ích là nó cung cấp được nhiều thông tin cho người dùng, giúp người dùng lên kế hoạch cho các kỳ nghỉ, tìm kiếm khách sạn và nhà hàng tốt, v.v trở nên dễ dàng hơn. Tuy nhiên, khi làm như vậy, nó cũng làm thay đổi ranh giới giữa công và tư. Theo truyền thống, mối quan hệ giữa khách hàng và người phục vụ thường được cho là việc riêng tư. Nếu người phục vụ không làm tốt, chúng ta có thể nói với bạn bè, người thân đừng đến đó, và như thế chỉ một số ít người biết thôi. Nhưng ngày nay, hệ thống AI giám sát đã xóa bỏ đi ranh giới riêng tư đó. Nó cho phép khách hàng có quyền “đập bể chén cơm” của người khác bằng cách đánh giá một sao để mọi người không ai đến với tài xế, thợ cắt tóc, shipper, các dịch vụ ăn uống hay cửa hàng kinh doanh đó nữa.

[105] Yuval, Nexus, 272.

[106] Phanxicô, Sứ điệp Trí Tuệ Nhân Tạo và Hòa Bình, 01/01/2024, số 2.

[107] Phanxicô, Sứ điệp Trí tuệ nhân tạo và Sự khôn ngoan của Con tim: Vì một truyền thông nhân bản trọn vẹn, 24/01/2024.

[108] GM Phêrô Nguyễn Văn Khảm, “Kitô Hữu Và Trí Tuệ Nhân Tạo (AI)”, truy cập ngày 11/06/2024, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/kito-huu-va-tri-tue-nhan-tao-ai

[109] La Croix, “Entretien Paolo Benanti: Pour le pape François, l’intelligence artificielle est une question sociale”, truy cập ngày 26/07/2024, https://www.la-croix.com/religion/pape-au-g7-pour-francois-l-intelligence-artificielle-est-une-question-sociale-20240613

[110] J.B Lê Đình Phương, C.Sr.R., “AI: Rượu mới bầu da cũ: Thách đố và Cơ hội từ quan điểm luân lý Công giáo”, Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 209.

[111] Ben Buchanan and Andrew Imbrie, The New Fire, (Cambridge, Massachusetts: The MIT Press, 2022), truy cập ngày 28/12/2024, https://reader.z-library.sk/read/c7213b8efef8cef1441bf16b5c0494bfe3cb362ef5597c54a9edc72d361f45e2/21004300/fc9c62/the-new-fire-war-peace-and-democracy-in-the-age-of-ai.html?download_location=https%3A%2F%2Fz-library.sk%2Fdl%2F21004300%2F791cbb. Dịch từ: “Today, we encounter AI as our distant ancestors once encountered fire. If we manage this technology well, it will become a tremendous force for global good, lighting the way to many transformative inventions. If we deploy it too quickly and without adequate foresight, AI will burn in ways we cannot control.”

[112] Stephen Hawking, Brief Answers to the Big Questions. Người viết dịch từ: “Success in creating AI would be the biggest event in human history. Unfortunately, it might also be the last, unless we learn how to avoid the risks. Used as a toolkit, AI can augment our existing intelligence to open up advances in every area of science and society. However, it will also bring dangers.”

[113] Yuval, 21 Lessons for the 21st Century, 157.

[114] X. J.B Lê Đình Phương, C.Sr.R., “AI: Rượu mới bầu da cũ: Thách đố và Cơ hội từ quan điểm luân lý Công giáo”, Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 207.

[115] Phanxicô, Tông Huấn Christus Vivit, 25/03/2019, số 88.

      [116] Martin Heidegger, Gelassenheit, (Pfullingen: Günther Neske Verlag, 1959), 24 - 25. Người viết dịch từ: “Wir konnen «ja» sagen zur unumgänglichen Benützung der technischen Gegenstände, und wir können zugleich «nein» sagen, insofern wir ihnen verwehren, daß sie uns ausschließlich beanspruchen und so unser Wesen verbiegen, verwirren und zuletzt veröden. […]. Wir lassen die technischen Gegenstände in unsere tägliche Welt herein und lassen sie zugleich draußen, d.h. auf sich beruhen als Dinge, die nichts Absolutes sind, sondern selbst auf Höheres angewiesen bleiben.”

[117] Yuval, 21 Lessons for the 21st Century, 97.

      [118] Phanxicô, Sứ điệp Trí tuệ nhân tạo và Sự khôn ngoan của Con tim: Vì một truyền thông nhân bản trọn vẹn, 24/01/2024.

[119] Paula Boddington, AI and Ethics, (Switzerland: Springer Nature, 2021). https://doi.org/10.1007/s43681-020-00017-0. Người viết dịch từ: “AI should be a tool. We need mastery over our tools. We use tools to complement our strengths and weaknesses. We use hammers to extend our strength—try bashing in a nail with your bare hands—but we have to have a certain strength, and a certain degree of precision, a certain discipline and skill, to use one.”

[120] Yuval, Nexus, 369.

[121] Yuval, Nexus, 430.

[122] Ibid., 369.

[123] J.B Lê Đình Phương, C.Sr.R., “AI: Rượu mới bầu da cũ: Thách đố và Cơ hội từ quan điểm luân lý Công giáo”, Phaolô Ngô Đình Sỹ chủ biên, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 213.

[124] X. Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova, 28/01/2025, số 2.

[125] Francis, “Address of his holiness Pope Francis”, Pope Francis attends the G7 Session on Artificial Intelligence, 14 June 2024, https://www.vatican.va/content/francesco/en/speeches/2024/june/documents/20240614-g7-intelligenza-artificiale.html

[126] ChatGPT là một trong những AI tạo sinh (generative AI) đáng chú ý nhất ở thời điểm hiện nay. Nó có khả năng tạo ra văn bản giống như con người. Khi được cho một vài từ, nó có thể “ngoại suy” để tạo ra một câu, hoặc khi được cho một câu chủ đề, nó nó thể “ngoại suy” để tạo ra một đoạn văn. Xem Henry A. Kissinger, Eric Schmidt & Daniel Huttenlocher, The Age of AI and Our Human Future.

[127] Micae Rua Trần Phạm Hoàng Gia Thi, SDB, “Trí tuệ nhân tạo và Giáo Hội: AI đang định hình công tác mục vụ như thế nào?”, truy cập ngày 08/12/2024, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tri-tue-nhan-tao-va-giao-hoi-ai-dang-dinh-hinh-cong-tac-muc-vu-nhu-the-nao

[128] X. Bộ Giáo lý Đức tin và Bộ Văn hóa – Giáo dục, Văn kiện Antiqua et Nova, 28/01/2025, số 33.

[129] Phanxicô, Thông điệp Dilexit Nos, 24/10/2024, số 20.

[130] Jean Baptiste Edart, “L’IA et la foi”, Phaolô Ngô Đình Sĩ dịch, Lời Vào Đất, tập 1, (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2024): 190-191.

[131] Ibid., 193.

[132] Nguyễn Hoài Lâm, Hermeneutics - Dẫn vào Thông Diễn Học, (ĐCV Sao Biển Nha Trang, 2025), 293.

[133] X. Micae Rua Trần Phạm Hoàng Gia Thi, SDB, “Trí tuệ nhân tạo và Giáo Hội: AI đang định hình công tác mục vụ như thế nào?”, truy cập ngày 08/12/2024, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tri-tue-nhan-tao-va-giao-hoi-ai-dang-dinh-hinh-cong-tac-muc-vu-nhu-the-nao

[134] X. Micae Rua Trần Phạm Hoàng Gia Thi, SDB, “Trí tuệ nhân tạo và Giáo Hội: AI đang định hình công tác mục vụ như thế nào?”, truy cập ngày 08/12/2024, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tri-tue-nhan-tao-va-giao-hoi-ai-dang-dinh-hinh-cong-tac-muc-vu-nhu-the-nao

[135] Francis, “Address of his holiness Pope Francis”, Pope Francis attends the G7 Session on Artificial Intelligence, 14 June 2024.

[136] Phanxicô, Sứ điệp Trí Tuệ Nhân Tạo và Hòa Bình, 01/01/2024, số 7.

[137] Bênêđictô XVI, Thông điệp Spe Salvi – Về niềm hy vọng Kitô giáo, 30/11/2007, số 22.