×

Giỏ hàng

978   2024-05-09 19:43:51

THINH LẶNG ĐỂ ĐƯỢC CHÚA CHỮA LÀNH

Chủng sinh Antôn Cao Nguyên Quốc Đạt

Đại dịch Covid 19 ập đến như bức màn tối bao phủ toàn thế giới. Tất cả sự sôi động náo nhiệt của một thế giới đang hối hả chạy đua với thời gian bỗng dưng nhường chỗ cho sự thinh lặng bất động. Tuy nhiên, nếu đủ bình an trong hoàn cảnh chết chóc ấy thì con người sẽ nhận ra thông điệp Chúa muốn gởi đến. Covid khiến tất cả dừng lại, qua đó Chúa muốn cho con người cơ hội chìm sâu trong sự thinh lặng để nhận ra giá trị nhân sinh, nhận ra những hồng ân mà lâu nay mình vô tình vội bước qua. Anh Nguyễn Thành Vinh, một đạo diễn Công giáo, qua chương trình Dòng chảy cuộc đời của Tổng giáo phận Sài gòn, đã chia sẻ cảm nghiệm sâu sắc của mình về giá trị của sự thinh lặng trong thời gian điều trị Covid. Chính trong sự thinh lặng, khi chạm đến ngưỡng cửa của sự chết, anh đã nhận ra “vẻ đẹp lộng lẫy của hồng ân sự sống.”[1]

Sự thinh lặng giúp con người nhận ra những giá trị tuyệt vời trong cuộc sống, điều vốn bị che lấp bởi ồn ào náo nhiệt của âm thanh. Sự thinh lặng cũng giúp con người khôn ngoan hơn, nhìn nhận thấu đáo vấn đề. Sách Châm ngôn viết: “Nếu biết giữ thinh lặng, kẻ ngu cũng được kể là người khôn ngoan; nếu biết ngậm môi, kẻ đó được coi là người thông hiểu” (Cn 17, 28). Hơn nữa, James Keating, coi thinh lặng là một phương tiện để được Chúa chữa lành.[2] Ý tưởng này đã đánh động người viết là một chủng sinh, nên tôi tự hỏi: Tại sao mình cần được chữa lành và thinh lặng sẽ giúp tôi được Chúa chữa lành như thế nào? Với những kiến thức trong thời gian được đào tạo tại chủng viện, người viết xin được đưa ra một số suy tư để trả lời cho hai câu hỏi trên.

  1. Những thách đố cho sự thinh lặng

Thời đại hôm nay, con người bị bủa vây bởi vô vàn tiếng ồn của tiếng còi xe, máy móc, các thiết bị khuếch đại âm thanh... Khái niệm “ô nhiễm tiếng ồn” ngày càng được nhắc nhiều hơn trên các phương tiện truyền thông và là mối bận tâm của toàn thế giới. Chúng ta không phủ nhận giá trị của mọi phát minh trong thế giới hiện đại. Tất cả những phát minh đó đều nhằm phục vụ cho đời sống của con người. Tuy nhiên, mặt trái của nó mà ai cũng thấy rõ là con người bị lạc lối giữa vô vàn âm thanh. Một môi trường sống luôn tràn ngập tiếng ồn như thế khiến thần kinh con người luôn căng thẳng, cơ thể luôn ở trong tình trạng kiệt quệ, stress. Tiếng ồn gây tổn hại không chỉ cho sức khỏe tâm - thể lý mà còn làm cho đời sống tinh thần của con người xuống cấp trầm trọng.

Chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy con người ngày nay rất dễ bị thu hút bởi những nơi ồn ào náo nhiệt. Ngược lại, sự thinh lặng trầm lắng là một điều khá xa xỉ trong tâm thức của họ. Các hoạt động giải trí ngoài trời, các lễ hội âm nhạc luôn chật kín người, đặc biệt là giới trẻ. Ngoài ra, một số nền tảng mạng xã hội: Tiktok, Facebook, Youtube... khiến con người trở thành những kẻ “du mục” trong thảo nguyên truyền thông. Các nền tảng này đưa người xem đến những thứ cảm xúc nhất thời, các giá trị ảo được tôn vinh và những hình thức mang giá trị tinh thần truyền thống dần bị lãng quên. Việc xem, nghe quá nhiều các trang mạng xã hội có nguy cơ gây nghiện. Người nghiện sẽ cảm thấy khó khăn trước các vấn đề cần suy tư. Thử hỏi một tâm hồn luôn dao động như vậy thì làm sao có thể tìm thấy những giá trị tinh thần đích thực, điều vốn chỉ có được khi con người có thời gian tĩnh lặng để cảm nghiệm và suy tư.  

Ngoài ra, đời sống thinh lặng cũng bị ảnh hưởng bởi những ý thức hệ thượng tôn chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa tương đối.[3] Khi con người cho rằng mình bị ‘vong thân’ bởi sự kiềm tỏa của tôn giáo, họ vùng lên, loại tôn giáo ra khỏi đời sống để tìm lại giá trị bản thân. Thoạt nghe, ta có cảm tưởng đây là ý thức vươn lên đầy tươi đẹp: con người muốn làm chủ vận mạng của mình. Song đằng sau cái vỏ bọc hào nhoáng kia là biết bao nhiêu tệ nạn khiến họ ngày càng đánh mất bản thân. Ai cũng muốn làm chủ bản thân và đặt ra luật lệ riêng cho mình nên chẳng còn giá trị chung cho tất cả. Dần dần, tư tưởng này dẫn con người đến một cuộc sống đầy những mâu thuẫn. Cái tôi cá nhân càng được đề cao càng khiến tâm hồn con người cảm thấy bất an vì sợ người khác xâm phạm. Cho dù cố tỏ ra bình thản nhưng tâm hồn con người sôi sục những sóng ngầm vị kỷ luôn hòng nuốt chửng họ.

Sống trong một môi trường đầy biến động như vậy, các chủng sinh cũng không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Việc giữ thinh lặng trở thành một thách đố cho các chủng sinh, nhất là trong tương quan với Chúa và tha nhân. Vì thế lời mời gọi huấn luyện đời sống nội tâm qua nhân đức thinh lặng để “được Chúa chữa lành” trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Đời sống thinh lặng được nhắc đến nhiều qua các tài liệu đào tạo của Giáo hội hoàn vũ và địa phương cũng như nơi nội quy các Đại chủng viện ở Việt Nam.[4]

  1. Thinh lặng để được Chúa chữa lành

Tác giả James Keating nhắc đến sự chữa lành như là hệ quả của một đời sống nội tâm kết hiệp mật thiết với Đức Kitô. Đức Kitô là mẫu gương lý tưởng của người chủng sinh trong tiến trình đào tạo ở chủng viện. Do đó, các chủng sinh cần được đào tạo sao cho Lời Chúa được họ đón nhận và yêu mến một cách sâu sắc. Lời này không ai khác chính là Chúa Kitô. Để đạt được mục đích này, chúng ta phải bắt đầu bằng việc vun trồng đời sống thinh lặng nội tâm đích thực.[5] Đắm chìm trong thinh lặng là dịp để tâm hồn người chủng sinh được bình an và để lòng thương xót Chúa nuôi dưỡng đức tin họ.

Người chủng sinh sống thinh lặng để được bình an nội tâm. Thực trạng trong nhiều chủng viện hiện nay, không ít chủng sinh cảm thấy rất khó cầu nguyện bởi lòng trí họ trống rỗng. Họ không thể nghe được Lời Chúa trong các giờ nguyện gẫm, chầu Thánh Thể hay các cuộc tĩnh tâm... Tâm hồn họ bất an, xáo động bởi quá nhiều tạp âm của xã hội bên ngoài. Thậm chí có người còn cảm thấy ngột ngạt khi phải ngồi im lâu giờ. Quan tâm đến mối nguy hại này, Đức Bênêđictô XVI mời gọi hãy tái khám phá ý nghĩa của sự thinh lặng để nhận ra thánh ý Chúa. Ngài nhắc lại lời các Giáo phụ dạy: chỉ nhờ thinh lặng Lời mới đến cư ngụ trong chúng ta.[6] Lời là lương thực nuôi dưỡng tâm hồn, là khí cụ bình an cho những ai ở lại trong Lời. Đắm chìm trong Lời là lúc ta nghe được Thiên Chúa nói nhiều nhất. Một minh chứng cụ thể cho suy tư trên là mẫu gương của thánh Giuse. Trong thinh lặng, thánh nhân nhận ra thánh ý nhiệm mầu của Thiên Chúa đang thực hiện trên Đức Maria. Lời Chúa chữa lành những bất an trong lòng ngài do các nghi vấn về việc Đức Maria mang thai cách kỳ lạ. Do đó, thinh lặng là dịp để mỗi chủng sinh hằng “suy đi nghĩ lại” nhằm hiểu kế hoạch Chúa làm qua các biến cố trong cuộc đời mình. Sống thinh lặng là dịp ta hóa tâm hồn mình ra không để được Chúa chữa lành.

Người chủng sinh sống thinh lặng để lòng thương xót Chúa nuôi dưỡng đức tin của họ. Sống đức tin là một cuộc hành trình đi vào chương trình của Thiên Chúa. Hành trình này không phải lúc nào cũng suôn sẻ, ngược lại lắm lúc ta tưởng mình gục ngã trước ‘thập giá’ Chúa trao. Quy luật vàng của cuộc hành trình này chính là thinh lặng: thinh lặng để tránh những toan tính cá nhân ích kỷ, thinh lặng để nhận ra sự khôn ngoan trong hành động của Thiên Chúa, thinh lặng để nhận ra trong đau khổ Chúa cõng mình trên vai. Trong những năm tháng sống ơn gọi tu trì, người viết gặp không ít trường hợp éo le: một người anh mất bố trước ngày phong chức linh mục, một phó tế được Chúa gọi về trên đường đi mục vụ... Thử hỏi với lý trí con người làm sao tránh khỏi thất vọng và đau buồn. Thánh Têrêxa Avila cũng từng hờn dỗi trách Chúa luôn chơi xấu những người bạn của Chúa là vậy. Tuy nhiên, nếu ‘để cho Chúa thời gian’ thì ta sẽ nhận ra thánh ý Chúa qua mỗi biến cố ấy. Người viết thật sự cảm động bởi hình ảnh các anh em khi hay tin người thân trong gia đình gặp bất trắc, việc đầu tiên họ làm là thinh lặng ngồi trước Thánh giá Chúa, khóc cùng Chúa. Chắc chắn, đó là dấu chỉ cho thấy họ sẵn sàng và đặt niềm tin vào sự trợ giúp của Thiên Chúa.

  1. Thinh lặng để tìm gặp chính mình

Không ít chủng sinh coi việc thinh lặng là một luật buộc phải làm. Thái độ này không sai nhưng sẽ biến việc giữ thinh lặng trở nên nặng nề. Thinh lặng không phải là một thực hành chay tịnh, cố gắng kiềm chế miệng lưỡi để không phát ra âm thanh trong những giờ quy định tại chủng viện. Yêu mến thinh lặng là thái độ các chủng sinh cần có[7] để họ nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa và để cho sự hiện diện của Người có thể xâm chiếm mình.[8] Điều này đồng nghĩa việc thinh lặng phải chạm đến con tim hay theo lời mời gọi của Bộ Giáo dục Công giáo là cần đạt đến sự thinh lặng nội tâm. Thánh Augustino dạy: “Yêu đi và làm điều bạn muốn.” Thánh nhân muốn ta đặt tâm thế ‘yêu’ vào mọi hành động của mình, khi đó ta sẽ có nhiều sáng kiến và cảm thấy thoải mái trong việc làm của mình. Có như vậy khi thực hành thinh lặng ta mới có thể đi sâu vào nội tâm để nhận ra và chữa lành những tổn thương tâm hồn.

Carl Jung, người có công khôi phục và phát triển khái niệm “Đứa trẻ bên trong” (Inner Child) nói rằng trong chúng ta ai cũng có một đứa trẻ nhạy cảm, dễ bị tổn thương.[9] Và Cha Henry M. Nouwen trong tác phẩm “Chỉ có một điều cần thôi” cũng khẳng định: Tất cả chúng ta đều là những người mang thương tích. Ai đả thương ta? Đó là những người ta thương và những người thương ta.”[10] Cuộc sống vội vã khiến con người quên rằng mình cần dừng lại và cho mình khoảng thời gian ngẫm nghĩ những điều đã qua, để rồi “đứa trẻ” ấy càng tổn thương nghiêm trọng hơn. Thinh lặng chính là phương pháp tối ưu để ta kết nối với đứa trẻ bên trong, kết nối với quá khứ, hồi tưởng lại những trải nghiệm và cảm xúc của mình khi còn nhỏ. Và điều này sau đó có thể giúp các chủng sinh nhận ra nỗi đau và tháo cởi nút thắt vô hình đang tồn tại trong tâm hồn mình.

Thực tế, nhiều chủng sinh không để ý, thậm chí không nhận ra giá trị chữa lành của việc thinh lặng. Trong họ có những nỗi đau và họ dùng sự bận rộn suốt ngày để che lấp nỗi đau ấy. Điều này như thể họ đang cố dùng một miếng vá để che đi vết thương đang mưng mủ bên trong. Họ khoác lên mình tấm áo choàng của năng động vui tươi trước mặt người khác, tuy nhiên lại cảm thấy trống rỗng, vô định mỗi khi đêm về, một mình đối diện với chính mình. Chỉ khi có sự thinh lặng, họ mới đủ bình an để hồi tâm trở về với chính mình, chấp nhận mình ‘là’ và yêu thương bản thân. Từng nút thắt trong cuộc đời họ sẽ được tháo cởi để họ trở nên thong dong với chính mình. Các nhà tâm lý học dùng phương pháp thiền định, quán chiếu để chữa lành. Với người Kitô hữu, cách riêng với các chủng sinh, cầu nguyện là phương dược tốt nhất để đem đến sự bình an trong tâm hồn, chữa lành những tổn thương vì “chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn con mới được nghỉ ngơi an bình” (Tv 62,2).

  1. Thinh lặng để đón nhận trọn vẹn tha nhân 

Thời đại bùng nổ công nghệ số, con người dễ liên lạc kết nối với nhau hơn. Chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh thì khoảng cách địa lý không còn là rào cản ngăn trở chúng ta thấy mặt nhau. Tuy nhiên, nếu đủ tỉnh táo, ta có thể nhận ra càng lệ thuộc vào công nghệ thì mối quan hệ giữa người với người càng trở nên hời hợt. Công nghệ có nguy cơ phá vỡ thế giới nội tâm bởi nó luôn khiến ta hối hả không đủ thời gian để cảm nhận tương quan mình đang có. Vì thế, “thinh lặng là thành phần của truyền thông mà nếu không có thì không thể có được những lời mang đậm ý nghĩa.”[11] Triết gia Emmanuel Levinas cũng có một phát biểu đáng để chúng ta suy gẫm: Chỉ có những người biết kiến tạo một tương quan đích thực với cô tịch mới có thể thiết lập được một tương quan với tha nhân

Trong Tông huấn “Chứng tá Phúc âm”, Đức Phaolô VI dạy rằng cần có sự thinh lặng để xây dựng một tình yêu huynh đệ biết mở rộng đón nhận mầu nhiệm tha nhân. [13] Nói theo ngôn ngữ của triết gia Gabriel Marcel, thinh lặng là cơ hội để ta nhận ra sự ‘huyền nhiệm của tha nhân’.[14] Thật vậy, mỗi người đều có những nét tính cách đặc trưng riêng. Tính cách này được hình thành từ lịch sử bản thân mỗi người, bao gồm ảnh hưởng của gen, của môi trường sống, lối giáo dục, và nhiều yếu tố liên quan khác nữa.  Bước vào môi trường chủng viện, mỗi người sẽ mang theo từng kiểu tính cách đặc trưng của riêng mình để hòa vào đời sống chung. Nếu người chủng sinh không đủ bình tâm thinh lặng thì rất khó để họ nhận ra nét đẹp nơi tính cách từng anh em. Họ có nguy cơ đánh giá xấu những người anh em không giống mình và xảy ra xung đột. Cho nên, thinh lặng chính là cầu nối tương quan giữa tâm hồn với tâm hồn, nó giúp tháo dỡ những mâu thuẫn do hiểu lầm gây ra.

Sự thinh lặng giúp người chủng sinh nhận ra nhu cầu của tha nhân. Đức Phanxicô mời gọi các mục tử “phải có mùi chiên”, phải tận hiến vì đàn chiên. Mỗi chủng sinh cũng cần tập sống nhân đức này để chuẩn bị cho sứ vụ tương lai. Tuy nhiên, để có mùi chiên, trước hết, người viết thiết nghĩ mỗi chủng sinh cần học cách ‘nghe mùi chiên’. Thái độ lắng nghe tốt nhất là đặt nó trong sự thinh lặng. Lúc này, nghe không dừng lại ở chức năng của thính giác mà còn bằng cả con tim để thấu hiểu từng con chiên. Có như vậy người chủng sinh mới cảm được nhu cầu thẳm sâu của họ. Đức Giêsu là mẫu gương tuyệt vời cho ta về thái độ lắng nghe này. Trong câu chuyện bà góa thành Naim, Luca kể rằng có cả một đám đông theo Chúa, nhưng chỉ mình Chúa đủ thinh lặng để nhận ra tiếng lòng bà góa (x. Lc 7, 11 – 17). Từ hôm nay, bà mất đứa con duy nhất, bà chỉ còn một mình, cô đơn hiu quạnh cho đến cuối đời. Như vậy, thinh lặng là chìa khóa để mở ra căn phòng mang tên ‘lòng trắc ẩn’ nơi lòng người chủng sinh để họ nghe và đồng cảm với những tiếng thét gào trong đau khổ của nhân loại.

Tạm kết

Thinh lặng là thước đo của đời sống nội tâm. Ý thức giá trị thiết yếu này nên các chủng viện xem việc yêu mến thinh lặng là phần vô cùng quan trọng trong tiến trình đào tạo ứng sinh linh mục. Lợi ích của thinh lặng như vừa phân tích giúp chủng sinh được Chúa chữa lành mối tương quan với Người, từ đó giúp họ có tương giao tốt với chính mình, và với tha nhân. Tất cả mọi sự đều đến từ ơn Chúa, tuy nhiên ân sủng của Chúa không loại trừ sự cố gắng của con người ngang qua sự giúp đỡ của tha nhân. Kỷ luật thinh lặng trong đời sống chủng viện chính là cơ hội để mỗi chủng sinh rèn luyện đời sống nội tâm. Sự thinh lặng bên ngoài sẽ góp phần xây dựng sự thinh lặng bên trong.

Từ cảm nhận của bản thân, người viết thiết nghĩ cần coi thinh lặng như một “nhu cầu” của tâm hồn. Nếu như lương thực hằng ngày là nhu cầu của thân xác thì thinh lặng là của ăn thiết yếu để tâm hồn lớn lên. Nhận thức như vậy giúp người viết không còn nhìn việc giữ thinh lặng trong chủng viện với một màu sắc u ám. Thật vậy, yêu mến sự thinh lặng là hành động thiết thực của mỗi chủng sinh để đáp lại lời mời gọi của Bộ Giáo dục Công giáo: trở thành “thầy dạy cầu nguyện” thực sự với kiến ​​thức vững chắc về truyền thống, những cảm nghiệm Thiên Chúa một cách sâu sắc và nhiệt thành để có khả năng hướng dẫn tâm hồn.[15]

 

[1] “Sự sống giá bao nhiêu,” trong Chuyên mục Dòng chảy cuộc đời, truy cập ngày 30/3/2024, https://www.youtube.com/watch?v=ipbn73Yu25M&t=2397s.

[2] James Keating, “Seminary Formation and Interior Silence,” Nova et Vetera, English edition, Vol. 2, No. 12 (2012): 319. Tiến sĩ James Keating là Giáo sư Thần học Tâm linh tại Chủng viện Kenrick-Glennon ở St Louis, MO.  Ông có gần ba mươi năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đào tạo giáo sĩ trong Giáo hội Công giáo, là tác giả và biên tập viên của nhiều cuốn sách về tâm linh, luân lý và đào tạo giáo sĩ.

[3]X. Thiên Triệu, “Tác động của chủ nghĩa tương đối trên giới trẻ,” Hiệp thông 84 (tháng 9 & 10 năm 2014), 142 - 156.

[4]X. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Optatam totius (Đào tạo Linh mục), số 11; The Sacred Congregation for Catholic Education, Spiritual Formation in Seminaries; Bộ Giáo sĩ, Đào tạo linh mục: Hồng ân ơn gọi linh muc, Uỷ ban Giáo sĩ và Chủng sinh trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam chuyển ngữ  ( Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2016), số 102; Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đào tạo Linh mục: Định hướng và chỉ dẫn (Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2012), số 294; https://www.dcvphanxicoxavie.com/vn/Statics/Noi-Quy-DCV.html.  

[5] X. The Sacred Congregation for Catholic Education, Spiritual Formation in Seminaries, 6/1/1980, II. Guideline 1; truy cập ngày 30/3/2024, https://www.catholicculture.org/culture/library/view.cfm?recnum=5199.

[6] X. Bênêđictô XVI, Tông huấn về Lời Chúa trong đời sống và sứ mạng của Hội Thánh (Dei Verbum), Ủy ban Kinh Thánh trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam chuyển ngữ (Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2011), số 66.

[7] X. Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Đào tạo Linh mục (Optatam Totius), Uỷ ban Giáo lý Đức tin trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam chuyển ngữ (Hà Nội: NXB Tôn Giáo, 2012), số 11.

[8] X. Gioan Phaolô II, Tông huấn Những mục tử như lòng mong ước (Pastores Dabo Vobis), Đậu Văn Hồng chuyển ngữ (Hà Nội: NXB Hồng Đức, 2015), số 48.

[9]  X. Shirley Davis, “The Wounded Inner Child,” truy cập ngày 30/3/2024, https://cptsdfoundation.org/2020/07/13/the-wounded-inner-child/.

[10] Henri M. Nouwen,  Chỉ có một điều cần mà thôi, Nguyễn Đức Thông chuyển ngữ (Tp. HCM: NXB Phương Đông, 2013), 155.

[11] Bênêđictô XVI, “Sứ điệp Ngày thế giới Truyền thông Xã hội lần thứ 46, Đức Thành chuyển ngữ, truy cập ngày 30/3/2024,  https://www.simonhoadalat.com/HOCHOI/Giaohoi/SuDiep/17TruyenThong2012.htm.  

[12] X. Đỗ Văn Thụy, Tâm phúc âm hóa đời sống cộng đoàn (Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2014), 232.

[13] X. Phaolô VI, Tông Huấn Chứng tá Phúc Âm (Evangelica Testificatio), Học viện Đa Minh chuyển ngữ (Lưu hành nội bộ), số 46.

[14]  X. Hạ Sơn, “Đạo đức trong triết lý về con người: ‘Vấn đề và huyền nhiệm’ của Gabriel Marcel,”  truy cập ngày 30-10-2023, https://spiderum.com/bai-dang/DAO-DUC-TRONG-TRIET-LY-VE-CON-NGUOI-VAN-DE-VA-HUYEN-NHIEM-CUA-GABRIEL-MARCEL-DNxooCAG4wlH.

[15] X. The Sacred Congregation for Catholic Education, Spiritual Formation in Seminaries.