Chương 2
BẢN CHẤT THẦN HỌC LUÂN LÝ[1]
Không có môn thần học nào trải qua sự biến đổi sâu rộng như khoa thần học luân lý trong thế kỷ này. Điều này, phản ánh sự tự nhận thức của Hội thánh có chiều hướng thay đổi và mở rộng (môn Giáo Hội học nhấn mạnh đến các mô hình Hội thánh như người phục vụ, có tính chất bí tích và phẩm trật v.v.), mối quan hệ của Giáo Hội với thế giới, sự canh tân việc học hỏi Thánh Kinh, giải phóng Thần Học Luân Lý thoát khỏi vài hình thức của chủ nghĩa cơ bản, cuộc đối thoại với các khoa học nhân văn (tâm lý học, xã hội học, nhân học, y khoa, kinh tế học… ), tính đại kết, trào lưu của các nhóm thiểu số bị áp bức đứng lên đòi quyền lợi, mối quan hệ giữa hàng giáo phẩm và giáo dân, trong đó mọi người đều có trách nhiệm riêng về Giáo Hội. Đừng để người giáo dân tưởng rằng các chủ chăn của mình luôn luôn là những chuyên gia sành sõi đến độ họ tin rằng từ bất cứ vấn đề nảy sinh nào, dù phức tạp đến đâu, các ngài đều có thể cho họ một giải đáp cụ thể, hoặc thậm chí công tác của các ngài đại để là phải như vậy… Hãy để người giáo dân đóng đúng vai trò riêng biệt của họ.[2]
Thật ra, thần học luân lý như là một khoa riêng biệt đã trải qua một lịch sử khá ngắn. Từ ngữ chuyên môn: thần học luân lý chỉ về ngành học riêng trong thần học hệ thống, đã được sử dụng rộng rãi từ cuối thế kỷ 16 và đầu thế kỷ 17, nghĩa là từ thời Phục hưng (Renaissance) với truyền thống thánh Tô-ma, sau Công Đồng Tren-tô (1545). Và đã có sự liên tục giữa các thủ bản, institutiones theologiae moralis, đầu thế kỷ 17 cho đến những thập niên 60 của thế kỷ 20 này, ngay trước Công đồng Vaticanô II. Ta sẽ khảo sát chi tiết lịch sử này trong những chương sắp tới. Bây giờ ta xem thần học luân lý được hiểu như thế nào vào thời gian trước thập niên 60 và hiện nay.
Hãy cầm thử giáo trình thần học luân lý nào đó được sử dụng trong đại chủng viện và được in vào năm 1935. Tôi chọn thời điểm đó vì hầu hết các đại chủng sinh và tu sĩ đã học thần học luân lý lúc đó, đều phải đọc phần lớn các sách viết bằng tiếng La-tinh cho đến những năm 60. Ví dụ cuốn Theologia Moralis do Aertnys và Damen, DCCT, xuất bản năm 1944, ngay cả câu định nghĩa về khoa thần học luân lý được viết bằng tiếng La tinh: “Theologia moralis definiri potest: ea pars Theologiae, quae tracat de ordinatione actuum humanorum in finem ultimum supernaturalem per observationem praeceptorum”.
Cuốn sách do H. Davis soạn được gọi là thần học luân lý và mục vụ. Ông đã tóm lược bản chất của thần học luân lý trong một số trang ngắn như sau:
Những ngành khác, ta có môn thần học tín lý, sự suy tư có hệ thống về niềm tin Kitô giáo dưới quyền tài thẩm của Giáo Hội, ta cũng có thần học hệ thống trong nỗ lực xét đức tin Kitô giáo như một tổng thể, nói đến tổng thể là nói đến các phần tử khác nhau nối kết lại với nhau.
Luân lý học nhằm giải thích những khoản luật về hành vi con người đối chiếu với định mệnh siêu nhiên của họ dưới cái nhìn của Chúa. Xét như là khoa học, nó khảo sát luân lý tính của hành vi nhân linh, cái nào thiện, cái nào ác theo luân lý, của ứng xử con người trong mối quan hệ với cứu cánh tối hậu đời người. Đó là khoa học thực dụng bởi nó nhằm điều chỉnh lại hành vi con người.
Thần học luân lý đảm nhiệm khảo sát các chân lý sau:
Sự hiện hữu của Thiên Chúa, định mệnh con người có tính cách siêu nhiên, ý chí tự do, quyền giáo huấn vô ngộ của Giáo Hội, hành vi nhân linh với ơn Chúa giúp có thể đạt đến định mệnh siêu nhiên của mình.
Thần học luân lý không hẳn là đạo đức học.
Thần học luân lý được tách khỏi đạo đức học bởi nó đảm nhận sự kiện Thiên Chúa mặc khải, truyền thống Giáo Hội và trật tự siêu nhiên. Đạo đức học xét đến những gì đúng hoặc sai trong mức độ lý trí con người có thể phán đoán mà chưa cần đến sự mạc khải thần linh.
Nguồn cho thần học luân lý:
Thánh Kinh, Truyền thống của Giáo Hội, các văn kiện của Công Đồng chung, các thông điệp và tông huấn của các Đức Giáo Hoàng, giáo huấn của các Giáo phụ, những tác phẩm về thần học, đặc biệt của các vị thần học gia lỗi lạc, được Giáo Hội Công Giáo tôn phong.
Vấn đề khó khăn về khoa thần học luân lý trước Công đồng và sau đó được cải tổ chính là vì nó đã được quá đề cao như một ngành riêng. Thực ra đã có một số vị chủ trương tách nó ra khỏi khoa thần học để sát nhập vào môn giáo luật, nhà giáo luật Ladislaus Orsy nói để bênh vực các nhà giáo luật: “Hãy thử nghe các nhà luân lý, khoa thần học của họ đã tồi tệ biết bao dưới tay của các nhà giáo luật; họ gắng cải trang làm cho nó trở thành một ngành của luật học”, (Thelogical Studies, Nghiên Cứu Thần Học, tr.15 ). McCormick trong bài báo khác đăng trên Nghiên Cứu Thần Học nói: “Khoa thần học luân lý dường như chỉ nhằm hướng về tòa cáo giải, chịu huấn quyền ngự trị, bị điều chỉnh theo các khoản giáo luật, xem tội lỗi là trung tâm và được chủng viện giám sát.”
Hướng về tòa cáo giải cho thấy các hành vi ưu tiên được nhấn mạnh trong cách mô tả của H. Davis về thần học luân lý, lịch sử tiến triển của thần học luân lý đi liền với sự phát triển và ban bí tích cáo giải. Nếu bạn có những sách hay giáo trình nổi tiếng về thần học luân lý 100 năm đổ lại đây, bạn sẽ thấy ít khi Thánh Kinh được trưng dẫn (xem Noldon, Genicot, Aertnys Damen), ít để ý đến tư tưởng các giáo phụ và thường tập chú trên những thói xấu hơn là nhấn mạnh đến nhân đức. (X. McCormick Theological Studies 1989, tr.5 có trưng một số ví dụ)
Lấy tội làm trung tâm: "Đã không được đề cập đủ đến đối tượng chính yếu và riêng biệt của đạo đức học Kitô giáo là các giá trị tích cực và những hành vi tích cực thích ứng, chứ không phải những phản giá trị hay những hành vi khiếm khuyết về mặt luân lý. Thần học luân lý là khoa học về thiện ích, về nhân đức và dĩ nhiên sau đó, nó đề cập đến sự thiếu vắng thiện ích, các nết xấu và những hành vi thiếu sót. (Orsy, tr.154).
"Đạo đức học Kitô giáo là môn học trí thức mô tả kinh nghiệm Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô và rút ra từ đó những kết luận chuẩn mực để cho các thành phần trong cộng đoàn biết cách xử sự. Việc ứng dụng là giúp cho các thành phần trong cộng đoàn tín hữu nhận ra điều Chúa muốn họ phải sống như thế nào và hành động ra sao cho phải lẽ." (J.Gustafson, Can Ethics Be Christian, tr.179).
Có lẽ ta nên liệt kê những phần chính yếu của thần học luân lý như sau:
Giờ ta hãy thử đối chiếu H. Davis với Bernard Haring, một trong những nhà thần học luân lý hàng đầu sau Công Đồng Vaticanô II, trong cuốn Free and Faithful in Christ (1978):
“Thần học luân lý theo tôi hiểu, trước hết không liên quan đến tự ý quyết định hay đến hành vi. Công việc và mục đích cơ bản của nó là đạt đến nhãn quan đích thực, đánh giá những viễn tượng chính và trình bày những chân lý và giá trị này dựa trên những quyết định thực hiện trước mặt Chúa.'” (tr. 6).
Tác giả không theo lối của những người muốn đóng khung thần học luân lý vào nền đạo đức chuẩn mực. Ý định đầu tiên của nhà luân lý là phải vạch ra một thái độ sẵn sàng cho Chúa Kitô và một nhãn quan sâu sắc rất cần thiết cho sự trưởng thành Kitô hữu, nhãn quan có được nhờ nghe Lời Chúa và tìm ra các dấu chỉ thời đại.
Chuẩn mực nhằm hướng dẫn hành vi phải tránh nếu sai lạc về mặt luân lý và nên làm nếu đúng về mặt luân lý.
Mười năm sau, năm 1988, cha Haring trong lần giảng thuyết sau cùng tại Học viện An-phong, Rôma, nơi mà ngài đã từng dạy từ năm 1950, đã đưa ra ý kiến là Thần Học Luân Lý phải như một khoa biết lắng nghe và tìm ra những dấu chỉ thời đại để thiết lập một thái độ sẵn sàng đón nhận Chúa Kitô. Lắng nghe lời Chúa, lắng nghe tiếng nỉ non từ kinh nghiệm nhân loại, tiếng kêu của những người nghèo, nhìn nhận thế giới khoa học rộng mở và giá trị của các khoa học khác, của các nền văn hóa và hệ thống đạo đức khác, cũng như cùng nhau tiến bước trong một Giáo hội trên đường lữ thứ. Dấu chỉ thời đại là cụm từ khá thành danh trong hiến chế Vui mừng và Hy vọng (Gaudium et Spes). Tìm ra những dấu chỉ khích lệ, những dấu chỉ Thánh Linh hoạt động, là phần việc của thần học luân lý trong công trình cứu rỗi và chữa lành.
Ta thấy rõ lực thúc đẩy trực tiếp khiến cho Thần học luân lý thay đổi tầm nhìn, trong Sắc lệnh Đào tạo Linh mục, số 16: "Thần học luân lý cần được trình bày cách khoa học hơn, cần được nuôi dưỡng và không ngừng đổi mới nhờ Kinh Thánh".Joseph Fuchs xuất bản cuốn sách có đề tựa: Giá trị nhân loại và nền luân lý Kitô giáo (1967), với chương đầu: “Thần học luân lý theo Công đồng Vat. II,” trong đó tác giả đã trích lại nội dung trên của Sắc lệnh Đào tạo Linh mục: "Trình bày Thần học Luân lý cách khoa học nhất thiết phải được khơi nguồn từ giáo huấn Kinh Thánh, nêu cao sứ mệnh của người tín hữu Chúa Kitô, đồng thời chỉ rõ bổn phận của họ là phải khai hoa kết quả trong đức ái để cho thế giới được sống.''
Ta có thể trưng dẫn thêm một tác giả khác đồng thời với chúng ta, Richard Gula đã có công sát nhập thần học luân lý với thần học tổng quát. Thần học Kitô giáo là môn học, trong đó có sự nỗ lực của đức tin tìm hiểu ơn mạc khải của Thiên Chúa tình yêu, trong Đức Yêsu Kitô thông qua Thánh Linh.
Thần học luân lý là sự diễn tả riêng biệt của Thần Học hệ thống tập chú nêu lên những đòi hỏi của đức tin và trong đời sống. Thần Học luân lý đặt câu hỏi cơ bản: "Trở nên người tín hữu Chúa Kitô, đâu là mối khác biệt cho cách ta sống trên đời này? Những hành vi nào ta phải thực hiện? (đạo đức bổn phận) và loại người nào ta phải trở thành? (đạo đức tư cách )
Trước hết ta cần nói với nhau: điều gì làm cho hành vi trở nên đúng hay sai, làm sao biết thích hợp hay không việc đáp trả lời kêu gọi của Chúa Kitô để mang bác ái, tình yêu cho thế giới? Vấn đề này ta sẽ cùng nhau tìm hiểu ở chương kế tiếp, khi bàn về hành vi nhân linh.
Linh mục Phêrô Trần Mạnh Hùng
Copyright©tác giả giữ bản quyền 2023.
LIÊN HỆ NHÀ SÁCH ĐỨC BÀ HOÀ BÌNH
Địa chỉ: Số 1 Công Xã Paris,
Phường Bến Nghé, Quận 1, Sàigòn
- Điện thoại: 0938.037.175 - (028) 3.8250.745
- Email: nsachducbahoabinh@gmail.com
- Website: https://ducbahoabinhbooks-osp.com
[1] . Xem Lm Trần Mạnh Hùng, Thần học luân lý: một cái nhìn mới (Hà Nội NXB Tôn Giáo, 2004 và tái bản năm 2012). https://ducbahoabinhbooks-osp.com/luan-ly/than-hoc-luan-ly-mot-cai-nhin-moi/
[2] . Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay sẽ cung cấp cho chúng ta vài định hướng căn bản:
“Giáo dân hãy mong đợi ánh sáng và sức mạnh tinh thần nơi các linh mục. Tuy nhiên, họ đừng vì thế mà nghĩ rằng: các chủ chăn có đủ thẩm quyền chuyên môn, để có thể có ngay một giải pháp cụ thể cho mọi vấn đề xảy ra, kể cả những vấn đề quan trọng; cũng đừng lầm tưởng các chủ chăn vốn có sứ mệnh ấy. Nhưng tốt hơn là chính họ, được đức khôn ngoan Kitô giáo soi dẫn và cẩn thận chú ý các giáo huấn của Giáo hội, hãy nhận lấy trách nhiệm của mình. (X. Gaudium et Spes, số 43).
Tin liên quan