×

Giỏ hàng

930   2024-04-06 06:50:46

Mặc khải như Đối thoại

Dei Verbum: một thông diễn học cho việc cầu nguyện cùng thần học

Đức ông Walter Oxley

Giáo phận Toledo, Ohio

Mặc khải từ đầu của Thiên Chúa được hiểu là Chúa Cha muốn thông truyền chính mình cho con người trong tình yêu. Cách hiểu này có thể giúp kết hợp sâu xa hơn đời sống thiêng liêng với đời sống tri thức. Sự tiến triển từ Hiến chế Dei Filius của Công đồng Vatican I đến Hiến chế Mặc khải Dei Verbum của Vatican II cho thấy hướng phát triển tích cực vươn đến tầm hiểu biết sâu sắc hơn về Mặc khải của Thiên Chúa, trước hết được hiểu là sự hiệp thông giữa các ngôi vị, thần linh và con người. Phương pháp luận ngôi vị (personalist) của Dei Verbum mở ra cánh cửa để liên hệ Thiên Chúa theo cách thức thần học, về cơ bản mang đậm tính cá vị (personal) hơn. Phương pháp này biểu thị một sự phát triển từ lối tiếp cận thần học chủ yếu mang tính học thuật, đến một nền thần học, không kém đi về phần giáo thuyết, nhưng đơn giản là mang tính tương quan hơn, như thế soi sáng giáo thuyết qua lăng kính ngôi vị tính (personhood). Điều này dẫn tới một mối liên hệ với thần học theo cách toàn vẹn và dễ tiếp cận hơn với kinh nghiệm sống của Kitô hữu, vốn đang tìm kiếm sự gần gũi của Thiên Chúa trong sâu thẳm cõi lòng, trong thử thách, vui mừng, đau buồn, và những cảnh huống của đời sống thường nhật.

Làm sao người ta khám phá hay cảm nghiệm sâu sắc hơn tình yêu Thiên Chúa dành cho họ? Một người không có đức tin hẳn là nhìn thấy một con ong nghệ, từ đó có thể nghĩ về quyền năng sáng tạo của Thiên Chúa (Dei Filius). Tuy nhiên, làm sao người không có đức tin đó nhận biết tình yêu cá vị của Chúa Cha, Đấng tạo nên ngôi vị tính cho họ, và ngôi vị tính này tồn tại và phụ thuộc vào Ngài (Dei Verbum)? Đôi khi Thiên Chúa đến với chúng ta trước tiên qua việc chúng ta sử dụng lý trí, từ đó dẫn đến đời sống đức tin và đức ái. Đối với người khác, Ngài nói trực tiếp qua kinh nghiệm mà không ưu tiên lý trí. Đối với một số người, cách đầu tiên là đủ, đối với số khác, dù ở giai đoạn đầu hay giai đoạn trưởng thành hơn của đời sống thiêng liêng, họ cần điều gì đó cá vị hơn. Điều này dường như đặc biệt đúng cho những ai mong muốn vun trồng mối tương quan suốt đời với Thiên Chúa trong lời cầu nguyện bền bỉ, kiên định và phó thác vốn bắt rễ trong tình yêu.

Con đường đến Dei Verbum: Hướng tới ngôi vị tính và sự hiệp thông

Hiến chế Tín lý Dei Filius của Vatican I, trong chương II về Mặc khải, trước tiên đề cập Mặc khải của Thiên Chúa qua tạo thành và sau đó đi tới Mặc khải qua lịch sử.[1] Truyền thống gọi phương pháp luận này là preambula fidei (khai đoạn đức tin hay bước dẫn nhập đức tin), được hiểu là kiến thức tự nhiên đi trước đức tin – một hành vi thần linh (divine act).[2] Nó chắc chắn có giá trị, nhưng điểm yếu là có thể chỉ dừng ở cấp độ tri thức mà không có sự tham gia của tình yêu. Ví dụ, chương III của Dei Filius, nói đến đức tin đối thần, theo nghĩa là một sự quy phục hoàn toàn của trí khôn và ý chí trước Thiên Chúa.[3] Vào giai đoạn này trong lịch sử Giáo hội, tín điều tập trung nơi sự ưng thuận của lý trí vào những khẳng định[4] do Giáo hội đề xuất, và chủ yếu dựa vào việc hiểu những ý niệm. Phương pháp này nhấn mạnh sự phân biệt giữa tự nhiên và ân sủng, đặc biệt là thực tại siêu nhiên của ân sủng.

Mặc dù chắc chắn là cần thiết và hữu ích khi Truyền thống có sự phân biệt này, tuy nhiên vẫn có cơ sở để phát triển xa hơn: 1) Ngôi Cha Đấng ban Mặc khải sẽ được nhấn mạnh trước tiên so với chính nội dung Mặc khải và 2) hành vi đức tin sẽ được đào sâu để bao gồm thực tại hiện sinh hơn ở cái tôi toàn diện tự do dâng lên Thiên Chúa.[5]

Do đó, Hiến chế Tín lý về Mặc khải của Vatican II Dei Verbum đóng góp một cách hiểu cả về Thiên Chúa Đấng mặc khải lẫn con người đáp lại mặc khải. Tuy nhiên, hành trình đi đến đóng góp này của Vatican II không phải là không gian nan.[6] Joseph Ratzinger, sau đó sớm trở thành chuyên viên, được Đức Hồng y Frings Tổng Giám mục Cologne yêu cầu xem lại dự thảo Constitutionis Dogmaticae De Fontibus (Hiến chế Tín lý De Fontibus), do Đức Giáo hoàng Gioan XXIII phê chuẩn ngày 13/7/1962. Bản thảo được gửi đến các thành viên công đồng trước khi được thảo luận tại Công đồng.[7] Tư tưởng của Joseph Ratzinger về phương pháp thần học trong dự thảo rất hữu dụng để chúng ta hiểu lợi ích từ việc hiểu Mặc khải và sự đáp lại của con người bằng hành vi đức tin qua lăng kính của các phạm trù ngôi vị tính và hiệp thông hơn là [phạm trù] tự nhiên và ân sủng, nhấn mạnh vào những phạm trù trước mà không bỏ qua những phạm trù sau. Trong cuốn Memoirs (Hồi ký), Ratzinger nhắc đến việc xem lại các bản văn sơ khởi cho Đức Hồng y Frings:

Ngài bắt đầu thường xuyên gửi các bản văn này để tôi bình phẩm và đề nghị cách tốt hơn. Đương nhiên, tôi không đồng ý một vài điểm, nhưng không tìm thấy cơ sở nào để triệt để bác bỏ những gì đã được đề xuất, chẳng hạn đã được xoay sở để thông qua. Đúng là các văn kiện này chỉ có ít dấu vết cuộc canh tân Kinh thánh và giáo phụ của những thập niên vừa qua, nên gây ấn tượng cứng nhắc và hẹp hòi khi bị lệ thuộc quá mức vào thần học Kinh viện. Nói cách khác, chúng phản ánh tư tưởng của các chuyên viên hơn là của các mục tử. Tuy nhiên tôi phải nói rằng chúng có nền tảng vững chắc và được soạn thảo kỹ lưỡng.[8]

Những mong muốn về thần học của vị linh mục trẻ Ratzinger đã được chứng thực tại Công đồng, khi các bản thảo do Ủy ban Trù bị Thần học chuẩn bị đã bị bác bỏ.[9] Ratzinger sau đó được bổ sung vào một Ủy ban hỗn hợp với tư cách là chuyên viên. Bản văn cuối cùng, với những sửa đổi, được chính thức ban hành dưới triều đại Giáo hoàng Phaolô VI vào ngày 18/11/1965. Đáng chú ý, những phân biệt giữa Thánh kinh và Thánh truyền như là các nguồn độc lập[10] đã bị loại bỏ, vì các nghị phụ Công đồng chọn không giản lược nội dung mặc khải vào những biến cố lịch sử. Theo như phân tích của Avery Dulles, phản đối cách tiếp cận Mặc khải mang tính lịch sử quá mức như vậy, các nghị phụ cho rằng chính Thiên Chúa trong thực tại vĩnh cửu của Ngài là nội dung hay đối tượng trước hết của Mặc khải.[11] Ratzinger phản ánh trong bài bình luận về những thành quả của việc quay trở lại các nguồn nguyên thủy này: “Cuộc đấu về Hiến chế Mặc khải chắc chắn là sự giải phóng khỏi quan niệm hạn hẹp và trở lại với những gì thực sự xảy ra trong các nguồn xác thực, trước khi được kết tinh thành giáo thuyết, khi Thiên Chúa ‘mặc khải’ chính mình, và do đó đánh giá lại toàn bộ bản chất và nền tảng sự tồn tại của Kitô giáo.”[12]

Dei Verbum như là chìa khóa thông diễn cho các văn kiện Công đồng

Dei Verbum, mặc dù được ban hành dưới triều Đức Giáo hoàng Phaolô VI, từ quan điểm giáo thuyết, có thể được xem là văn kiện nguồn, hay chìa khóa thông diễn đối với các văn kiện khác của Công đồng. Công đồng bắt đầu và kết thúc với thảo luận về Dei Verbum,[13] vì thế cung cấp một thông diễn luận thần học để từ đó triển khai và kết luận. René Latourelle so sánh sự xuất hiện của Dei Verbum như một phương pháp tiếp cận Mặc khải mang tính ngôi vị, lịch sử, và qui Kitô hơn, cũng như ít tính ngoại tại (extrinsicist[14]), tạm thời và thuộc ý niệm.[15] Bình luận của Joseph Ratzinger về Dei Verbum mô tả các chiều kích thần học của việc đánh giá lại mối liên hệ giữa lời nói và biến cố trong cấu trúc Mặc khải.[16] Ratzinger nói: “Các nghị phụ chỉ quan tâm đến việc vượt qua chủ nghĩa duy tri thức (intellectualism) tân kinh viện, theo đó Mặc khải chủ yếu là một kho các giáo huấn siêu nhiên huyền bí, tự động giản lược đức tin đến mức chỉ còn là việc chấp nhận những hiểu biết siêu nhiên này.”[17]

Bản chất độc đáo của Hiến chế này là nó bắt đầu với Mặc khải cá vị của Thiên Chúa và ơn cứu độ nơi Đức Giêsu Kitô, một xuất phát điểm khác so với Hiến chế của Vatican I, vốn trước hết nói về mặc khải của Thiên Chúa qua tạo thành, sau đó mới đến Mặc khải qua lịch sử.[18] Vì vậy, Hiến chế của Vatican II đưa ra một phương pháp thông diễn mà nhờ đó có thể áp dụng cả suy tư chiêm niệm lẫn đón nhận các chân lý thuộc giáo lý và tín lý, nghĩa là, thông qua nguồn cội là ngôi vị Cha, và Mặc khải trọn vẹn của Ngài nơi con người Đức Giêsu Kitô.[19]

Thần học của Henri De Lubac, S.J. đóng vai trò như chất xúc tác để đặt mầu nhiệm Chúa Kitô lên hàng đầu của Mặc khải. Trong khi cách diễn đạt bằng khái niệm, cùng với những ý niệm và mệnh đề của chúng, được xem là cần thiết trong thần học của ông, tuy nhiên chúng chỉ được soi sáng nhờ tính chất trung tâm của mầu nhiệm Chúa Kitô.[20] De Lubac thừa nhận rằng chân lý quy phạm của mầu nhiệm này cần chi phối cách hiểu của chúng ta về các công thức đúng, v.v., chân lý quy phạm này là trung tâm của việc tái khám phá ra rằng mầu nhiệm con người Đức Kitô chứa đựng toàn bộ Mặc khải và toàn bộ tín điều.[21]

Cách hiểu quy Kitô về Mặc khải để lại không gian rộng rãi cho việc bảo tồn và bảo vệ sự hiện diện của mầu nhiệm trong cách chúng ta hiểu về hành vi đức tin, nhờ đó làm cho đức tin, một nhân đức đối thần, có thể chạm tới những cấp độ sâu xa hơn của con tim, mà những câu trả lời bằng khái niệm là không đủ.[22] Rõ ràng là vì phương pháp này tập trung vào ngôi vị tính thần linh của Chúa Cha và Đức Kitô, nên nó mang tính vô ngôn (apophatic). Ở đây, những gì thuộc thần linh không bao giờ có thể bị giản lược vào những khái niệm hay công thức của riêng chúng ta. Với việc đặt ngôi vị và mầu nhiệm lên hàng đầu,[23] chúng ta được mời gọi hiểu Mặc khải như là một biến cố đối thoại.

Hơn nữa, với việc nhấn mạnh đến ngôi vị tính, cả thần linh và nhân loại, một cánh cửa mở ra cho một nền siêu hình học, nhìn từ góc độ hữu thể học, phản ánh tính ưu việt của ngôi vị tính, sự hiệp thông và tình yêu. Khởi điểm cho một nền siêu hình học như vậy sẽ là lời mời gọi của Ngôi Cha cho toàn thể tạo thành tham dự vào biến cố hiệp thông.[24]

Theo Maximus Người Tuyên Tín,[25] nếu Chúa Cha làm ra mọi sự bởi ý muốn của Ngài, và làm ra mỗi thụ tạo bằng một hành vi của ý muốn, thì Cha biết những thứ đang hiện hữu như là biết những sản phẩm từ ý muốn của Ngài. Tất nhiên, ý muốn, theo ý nghĩa cổ điển của Kitô giáo, đồng nhất với tình yêu của Cha, vốn dĩ khác biệt đáng kể với việc Cha biết mọi sự chỉ theo bản chất của chúng (Hy Lạp cổ điển). Đối với Maximus, Thiên Chúa biết mọi sự chỉ vì Ngài trước hết yêu chúng.[26] Do đó, Maximus đưa ra nền tảng cho một siêu hình học Kitô giáo, trong đó tình yêu là mối liên kết tối hậu giữa Thiên Chúa và tạo thành.

Nhập thể là một hành vi yêu thương từ Chúa Cha, và điều này buộc rằng ngôi vị tính và tình yêu phải được hiểu là điều trước tiên trong bất kỳ nền siêu hình học Kitô giáo nào. Bởi vì tình yêu là hành động chính yếu của Thiên Chúa trong tạo dựng, nên tình yêu phải là hành động đáp trả chính yếu của con người. Để tình yêu trở thành sự đáp trả đầu tiên, thì đức tin phải có khả năng tiếp cận những góc hiện sinh sâu xa nhất của cõi lòng con người. Những góc khuất này của con tim thường vẫn bị che khuất trong mầu nhiệm, được thừa nhận, nhắc đến và chữa lành chỉ qua đời sống ân sủng và cầu nguyện, không có những khái niệm; trong một hình thức cầu nguyện vô ngôn mà có thể được mô tả không gì khác hơn là sự quy phục đầy tình yêu.

Dei Verbum như Đối thoại

Dei Verbum số 1 bắt đầu bằng khẳng định: “Khi thành kính lắng nghe và mạnh dạn công bố Lời Thiên Chúa.”[27] Điều này như vậy trở thành tư thế cầu nguyện của chúng ta, xem trọng Lời Chúa như là món quà thần linh, nối dài từ tình yêu trọn hảo của Chúa Cha và đòi hỏi một sự đáp trả từ chúng ta trong mỗi lần gặp gỡ qua cầu nguyện.[28] Vì vậy, trong mỗi hành vi lectio divina, học hỏi thần học, hay là cầu nguyện chiêm niệm, chúng ta được số đầu tiên này mời gọi thành kính lắng nghe và chú tâm vào sự hiện diện của Thiên Chúa trong Lời của Ngài.

Số 2 của Hiến chế còn mở rộng thêm lời mời gọi này của Chúa Cha khi nói về việc Thiên Chúa “mặc khải chính mình” cho con người, Ngài “ngỏ lời với loài người như với bạn hữu và đến nói chuyện với họ” để “mời gọi và chấp nhận cho họ đi vào cuộc sống của chính Ngài.”[29] Joseph Ratzinger hiểu DV 2 mang tính cách đối thoại, nhất là vì sử dụng những từ chỉ việc đối thoại, như alloquitor và conservatur.[30] Được các nghị phụ Công đồng sử dụng để mô tả mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người, những động từ này là ví dụ về ý nghĩa đối thoại của Mặc khải theo nghĩa lời, vì mỗi lời đều giả định “tôi” và “bạn” và ngụ ý rằng “tôi” muốn được “bạn” hiểu.[31] Cách hiểu này về lời mang theo sự ủy thác có tính hiện sinh.[32]

Hơn nữa, như đã đề cập trước đó, Dei Verbum số 5, phát triển từ Vatican I, mô tả sự ưng thuận Mặc khải như là ưng thuận Mặc khải Thiên Chúa ban,[33] nhấn mạnh đến Ngôi Cha trao ban mặc khải (chủ thể) thay vì chỉ đơn giản ưng thuận chân lý được Thiên Chúa mặc khải (nội dung).[34] Joseph Ratzinger nhận xét rằng việc thay đổi điểm nhấn này “mở ra một viễn cảnh mới, một lần nữa không loại bỏ phần tri thức của đức tin, nhưng hiểu nó như là thành phần của một toàn thể lớn hơn.”[35] Do đó, hiển nhiên là các nghị phụ của Vatican II mong muốn ngôi vị hóa Mặc khải.[36]

Dấu vết Thông diễn học trong Huấn quyền

Trong thông điệp đầu tiên, Deus Caritas Est, Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI đã cố gắng giải thích những đóng góp thần học trước đây của ngài cho Dei Verbum khi tái khẳng định sự cần thiết của việc chuyển từ cách hiểu cổ điển sang cách hiểu cá vị hơn về Thiên Chúa, Ngài giải thích:

Sức mạnh thần thánh mà Aristote tại đỉnh cao của triết học Hy Lạp tìm cách nắm bắt thông qua suy tư, thì đối với mọi người quả thực là một đối tượng của khao khát và tình yêu, và như là một đối tượng của tình yêu, thần tính này lay động thế giới, nhưng tự thân nó không thiếu gì và không yêu: nó hoàn toàn là đối tượng của tình yêu. Thiên Chúa duy nhất mà Israel tin, mặc khác lại yêu thương bằng một tình yêu cá vị.[37]

Trong thông điệp thứ hai, Spe Salvi, Đức Bênêđictô XVI nói rằng Thiên Chúa muốn mặc khải chính mình cho con người không chỉ đơn giản như là thông truyền một điều gì đó để biết, nhưng nó liên hệ đến toàn thể con người, ngài nói:

Vì vậy bây giờ chúng ta có thể nói: Kitô giáo không chỉ là “tin mừng” – sự truyền thông một nội dung trước đó chưa biết. Trong ngôn ngữ của mình, chúng ta có thể nói: sứ điệp Kitô giáo không chỉ mang tính “thông tin” (informative) nhưng còn “hành động” (performative). Điều này nghĩa là: Tin mừng không chỉ đơn thuần là một sự truyền thông những điều có thể biết – nó làm mọi sự xảy ra và biến đổi cuộc sống.[38]

Đức Giáo hoàng Phanxicô, tiếp nối người tiền nhiệm, sử dụng cùng phương pháp thông diễn khi ngài nói đến tương quan giữa kerygma với việc lưu truyền đức tin. Ngài nói về cuộc gặp gỡ ban đầu với Thiên Chúa trong Mặc khải ban cho người đón nhận Mặc khải sự bảo đảm, ý nghĩa và khôn ngoan, vì nó làm thỏa mãn khao khát điều vô hạn. Để ân sủng này xảy ra, Đức Phanxicô khẳng định, việc rao giảng phải mang tính chất tin mừng hơn là triết học. Về cơ bản, việc lưu truyền đức tin trước tiên phải nhằm làm dịu con tim đang khao khát, lấp đầy nơi sâu thẳm lòng người bằng chính ngôi vị Thiên Chúa, và sau đó, bằng cách chuyên cần cầu nguyện, bằng giáo lý cần thiết vốn diễn tả Thiên Chúa và cho chúng ta biết nhiều hơn về tự thân Ngài là ai. Đức Phanxicô viết:

Chúng ta không được nghĩ rằng trong việc dạy giáo lý, lời rao giảng đầu tiên (kerygma) nhường chỗ cho việc đào tạo được coi là “vững chắc” hơn.  Không có gì vững chắc, sâu sắc, bảo đảm, ý nghĩa và khôn ngoan hơn lời rao giảng đầu tiên đó. Tất cả việc đào tạo Kitô giáo bao gồm việc ngày càng đi sâu vào kerygma, được phản chiếu trong việc dạy giáo lý và không ngừng soi rọi vào công việc này, nhờ đó giúp chúng ta hiểu đầy đủ hơn ý nghĩa mọi đề tài mà giáo lý đề cập. Nó là sứ điệp có thể đáp lại nỗi khao khát điều vô hạn nằm nơi cõi lòng mỗi người. Tính chất trung tâm của kerygma đòi hỏi phải nhấn mạnh những yếu tố cần thiết nhất ngày nay: nó phải diễn tả tình yêu cứu độ của Thiên Chúa vốn đi trước bất kỳ một nghĩa vụ luân lý và tôn giáo nào về phía chúng ta, nó không nên áp đặt sự thật nhưng kêu gọi tự do; nó phải được đánh dấu bằng niềm vui, khích lệ, sức sống và một sự cân bằng hài hòa để không giản lược việc rao giảng vào một vài giáo thuyết đôi khi giống triết học hơn là tin mừng. Tất cả điều này đòi hỏi người rao giảng phải có những thái độ nhất định thúc đẩy sự cởi mở trước sứ điệp: dễ đến gần, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, nồng nhiệt và niềm nở mà không phát xét.[39]

Kết luận

Khi lớn lên trong đời sống thiêng liêng, con người liên hệ với Thiên Chúa theo cách thức chuyển từ những khái niệm đến sự hiện diện nhiều hơn. Khi cầu nguyện, họ ngồi xuống và được lôi kéo vào những phút giây thing lặng sâu hơn và kéo dài hơn. Sự thinh lặng ngày càng gia tăng và sâu sắc hơn thì cùng lúc đó khao khát chia sẻ Thiên Chúa với người khác cũng lớn hơn. Tuy nhiên, trong việc chia sẻ này, tha tính (otherness) của Thiên Chúa, mầu nhiệm vĩ đại, và đồng thời là tình yêu rất cá vị và thân mật của Ngài quá choáng ngợp đến nỗi các khái niệm dường như không giải thích đủ rõ ràng về Ngài, và bằng những khái niệm đó, người ta nhận thức rằng chúng không làm dịu cơn khát bên trong họ. Chính ở giai đoạn này của đời sống thiêng liêng mà họ phải bỏ qua tri thức, nhưng nhìn nhận nó cách cá vị hơn, để nó trở nên hoà nhập hơn với lời cầu nguyện của mình.

Phương pháp thông diễn này đưa ra bởi Công đồng Vatican II như được khai triển trong bài viết cho phép người ta làm được điều đó. Nó dành cho người mới bắt đầu, người tìm kiếm sự khỏa lấp của Thiên Chúa, cũng như dành cho bậc chiêm niệm khôn ngoan và giàu kinh nghiệm. Dù là người mới bắt đầu, hay đang bước vào những giai đoạn sâu xa hơn của đời sống thiêng liêng, cách thức mà các nghị phụ Công đồng Vatican II nhận ra để mô tả cách Thiên Chúa liên hệ chúng ta trong toàn thể tính của ngôi vị chúng ta, với tâm trí và cõi lòng chúng ta, chỉ giúp chúng ta chìm sâu hơn vào mầu nhiệm vốn dĩ là chính Thiên Chúa Ba Ngôi.

Gioan Quốc Trầm chuyển ngữ từ hprweb.com

(26/01/2024)

[1] “Hội thánh là Mẹ chúng ta tin chắc và giảng dạy rằng Thiên Chúa, là nguyên lý và là cứu cánh của muôn vật muôn loài, có thể được biết một cách chắc chắn bởi ánh sáng tự nhiên của lý trí con người từ những sự vật Người đã sáng tạo.” Công đồng Vatican I, Hiến chế Dei Filius, trích trong Denzinger (DZ), bản dịch của Nguyễn Văn Hòa, OP. (Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2019), 3004.

[2] Cf. K. Rahner, H. Vorgrimler, ed. Dictionary of Theology (Chestnut Ridge, NY: Crossroad Publishing, 1985), 403.

[3] “Bởi lẽ, con người hoàn toàn lệ thuộc Thiên Chúa như lệ thuộc Đấng Sáng Tạo và là Đức Chúa của nó, và lý trí thọ tạo thì tuyệt đối tuân phục chân lý phi thọ tạo, chúng ta buộc phải lấy đức tin vào Thiên Chúa mặc khải mà dâng lên Người sự quy phục viên mãn của trí khôn và ý chí của chúng ta.” Trích trong DZ 3008.

[4] Propositions – những mệnh đề hay định đề thần học. Chú thích của người dịch [ND].

[5] “Đối với Thiên Chúa, Đấng mặc khải, con người phải bày tỏ sự vâng phục bằng đức tin, qua đó, con người tự do phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa.” Công đồng Vatican II, Hiến chế Dei Verbum, bản dịch của HĐGM Việt Nam (Hà Nội: NXB Tôn giáo, 2012), 5. “Deo revelanti praestanda est oboeditio fidei, quao homo se totum libere committit.”

[6] cf. R. Fisichella, “Dei Verbum 1: History”, in R. Fisichella and R. Latourelle eds., Dictionary of Fundamental Theology, New York, NY, 1994, 215–216. Cf. J. Ratzinger, Commentary on the Documents of Vatican II, ed., H. Vorgrimler, 159. Ủy ban Trù bị Thần học cho văn kiện về mặc khải được Đức Hồng y Ottaviani của Thánh bộ Tín lý (Holy Office, tiền thân của Bộ Giáo lý Đức tin) làm chủ tịch, cùng với Sebastian Tromp, giáo sư môn Hộ giáo tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana làm thư ký. Fisichella lưu ý rằng chính bởi sự tài tình của Tromp trong việc cung cấp một bản thảo tóm tắt mà chủ đề phức tạp này được thảo luận một cách có tổ chức.

[7] Cf. R. Fisichella, “Dei Verbum 1: History,” 215.

[8] J. Ratzinger, Milestones Memoirs 1927–1977 (San Francisco, CA: Ignatius Press, 1998). Xem thêm J. Wicks S.J, Investigating Vatican II: Its Theologians, Ecumenical Turn, and Biblical Commitment (Washington D.C.: CUA Press, 2018), 88: “Về nguyên tắc, Đức Ratzinger nói rằng các văn bản của công đồng ‘không nên là những chuyên luận theo phong cách kinh viện, như thể chúng được lấy ra từ sách giáo khoa của các nhà thần học, mà thay vào đó phải nói bằng ngôn ngữ của Kinh thánh và các thánh Giáo phụ.’” Cuốn sách gần đây nhất này của Fr. Wicks S.J., nguyên Giáo sư Thần học Căn bản tại Đại học Giáo hoàng Gregoriana, là kết quả của nhiều năm suy tư thần học và lịch sử về các văn bản của Công đồng Vatican II.

[9] Cf. J. Wicks, S.J, Investigating Vatican II, 63–64. Vốn đã đưa ra một bản thảo thay thế cùng với K. Rahner, Ratzinger đã có bài trình bày cho các nhóm giám mục. “Vào 10/10/1962, một ngày trước buổi cử hành phụng vụ khai mạc, Joseph Ratzinger phát biểu trước những giám mục nói tiếng Đức về những vấn đề nghiêm trọng của bản thảo ‘Các nguồn Mặc khải.’”

[10] Cf. R. Fisichella, “Dei Verbum I: History,” 216. Cf. J. Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation: Origin and Background” in Commentary on the Documents of Vatican II, ed., H. Vorgrimler, ed. III (New York, NY: Herder and Herder, 1969), 159.

[11] Cf. C. Colson and R.J. Neuhaus, eds, Your Word is Truth: A Project of Evangelicals and Catholics Together (Grand Rapids, MI: Eerdmans Publishing, 2002).

[12] J. Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation: Origin and Background,” ed. H. Vorgrimler, 170. Trong đó, Ratzinger cho rằng chỉ khi nào Thánh kinh và Thánh truyền như là những ‘nguồn xác thực’ (positive sources) được đưa vào trong mối tương quan với ‘nguồn nội tại’ (internal source, tức Mặc khải), thì người ta mới có thể trả lời cho những vấn đề – trước Công đồng – liên quan đến những cuộc tranh luận với Tin lành.

[13] Cf. R. Latourelle, “Dei Verbum II: Commentary” in Commentary on the Documents of Vatican II, ed. H. Vorgrimler, ed. III (New York, NY: Herder and Herder, 1969), 218. Ở đây, Latourelle nói rằng “Dei Verbum là một trong những hiến chế đầu tiên được đưa ra để thảo luận, và là một trong những hiến chế sau cùng được bỏ phiếu.”

[14] Quan điểm cho rằng trật tự tự nhiên chính là nền tảng của hiện hữu con người, trật tự siêu nhiên (ân sủng) như là cái được phụ thêm từ bên ngoài đến với bản tính con người. Đây chính là quan niệm đã được Maurice Blondel gọi là “chủ nghĩa ngoại tại” (extrinsicism) vì ân sủng siêu nhiên được hiểu như là một thực tại hoàn toàn ngoại tại và ở bên ngoài bản tính tự nhiên. [ND].

[15] Latourelle, “Dei Verbum II: Commentary,” 218.

[16] Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation,” 172.

[17] Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation,” 172.

[18] Cf. Latourelle, “Dei Verbum II: Commentary,” 218.

[19] Cf. T. Neal and J. Gresham, Wonder and the Prayerful Study of Theology (Omaha, NE: Institute for Priestly Formation, 2017). Hai giáo sư thần học giàu kinh nghiệm này giới thiệu cho chủng sinh cầu nguyện với giáo lý của Giáo hội bằng việc sử dụng Tín biểu Chalcedonia như là một vinh tụng ca. Phương pháp luận của Dei Verbum giúp nâng cao kinh nghiệm này chừng nào chủng sinh có thể suy tư về giáo lý của Giáo hội trong sự liên hệ với và như một hồng ân đến từ Ngôi Cha. Từ đó, chủng sinh sẽ đón nhận giáo lý không chỉ về mặt tri thức, nhưng còn trong sâu thẳm tâm hồn, từ đó họ có phương tiện phối hợp giờ cầu nguyện trước Bí tích Thánh Thể với các giờ lớp thần học.

[20] Cf. R. Latourelle, Theology of Revelation (Staten Island, NY: Alba House, 1966), 228.

[21] Latourelle, Theology of Revelation, 228.

[22] Latourelle, Theology of Revelation, 228. Xem thêm bộ ba tác phẩm của Fr. Donald Haggerty, một nhà linh hướng chủng viện giàu kinh nghiệm, viết về cầu nguyện chiêm niệm để thấy được một bài trình bày tuyệt vời về việc các khái niệm không đủ để tâm hồn phát triển sâu xa hơn trong đời sống thiêng liêng: Contemplative Provocations (2013); Contemplative Hunger (2016); and Contemplative Enigmas (2020, all from Ignatius Press).

[23] Latourelle, Theology of Revelation, 228.

[24] Cf. International Theological Commission, Theology, Christology, Anthropology, 1982–1983. “Trong triết học cổ đại, bản chất (substance) nói chung là trung tâm của sự vật, nhưng ở đây trọng tâm là ‘siêu hình học đức ái,’ nghĩa là ngôi vị, hành vi đức ái hoàn hảo nhất của nó là hành vi đức ái.”

[25] Maximus the Confessor (580–682).

[26] Cf. Maximus the Confessor, Ambigua 7.

[27] DV 1. Bản gốc Latinh: “Dei Verbum religiose audiens et fidenter proclamans.”

[28] Cf. R. Latourelle, “Dei Verbum II: Commentary,” 218.

[29] DV 2. Bản gốc Latinh: “Hac itaque revelatione Deus invisibilis ex abundantia caritatis suae homines tamquam amicos alloquitor et cum eis conversatur.”

[30] J. Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation: Origin and Background,” ed. H. Vorgrimler, 171.

[31] Cf. R. Latourelle, Theology of Revelation, 228. See also S. Pie-Ninot, La Teologia Fundamentale, Brescia, 2007, 83–84.

[32] Cf. R. Latourelle, Theology of Revelation, 324–325. See also J. Alfaro, S.J., “Persona Y Gracia” in Gregorianum Vol. 41, Rome, 1960, 5–29.

[33] Cf. Dei Verbum, Decrees of the Ecumenical Councils, Vol. II, ed., N.P. Tanner S.J., 973. In nghiêng của tôi.

[34] J. Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation,” 178. Cf. Dei Filius, First Vatican Council, Vol. II, ed. N.P. Tanner S.J., 807.

[35] J. Ratzinger, “Dogmatic Constitution on Divine Revelation,” 178.

[36] Cf. R. Latourelle, “Dei Verbum II: Commentary,” 218.

[37] Benedict XVI, Encyclical Letter Deus Caritas est, article 9, 2006.

[38] Benedict XVI, Encyclical Letter Spe Salvi, article 3, 2007.

[39] Phanxicô, Tông huấn Evangelii gaudium (2013), 165.