ĐẠO CÔNG GIÁO KHIẾN MỌI THỨ THÚ VỊ[1]
Nếu như tất cả tri thức nhân loại có được nhờ vào sự kết hợp giữa đức tin và lý trí, thì các giáo viên Công giáo cần phải cân nhắc đến sự tổng hợp đặc thù giữa đức tin Kitô giáo và lý trí, cũng như thế giới quan đến từ sự tổng hợp này và tác động to lớn của nó đối với tri thức và văn hóa nhân loại. Thật vậy, thật khó tưởng tượng ra bất kỳ thế giới quan nào có tác động tương đương khi nhìn qua toàn bộ những nỗ lực của con người. “Có thế giới quan nào khác sao?”, Walker Percy, một nhà văn Công giáo người Mỹ đã mạnh dạn chất vấn khi được hỏi về lý do ông trở lại Công giáo.
Trong những lãnh vực đa dạng như triết học, tiếp cận xã hội, nghệ thuật, văn chương, khoa học, chính trị, luật pháp, y tế, và giáo dục (chỉ đơn cử một số), những đóng góp của cá nhân, tổ chức và dòng tu Công giáo mang tính quyết định thậm chí định hình thế giới. Có thể kể những nhân vật và tổ chức như thánh Augustinô, Dante, Mẹ Têrêsa, Dòng Thừa sai Bác Ái, Galilêô Galilê, Caritas quốc tế, Dorothy Day, thánh Tôma Aquinô, Sigrid Undset, Bartolomeo de las Casas, Michelangelo, Shusako Endo, Flannery O’Connor, Nicholas Copernic, Gerard Manley Hopkins, Jacques và Raïssa Maritain, J. R. R. Tolkien, Dòng Vinh Sơn Phaolô, Elizabeth Anscombe, Marshall McLuhan, thánh Inhaxiô Loyola và Dòng Tên, thánh nữ Edith Stein, cha Georges Lemaître, và có lẽ một số cho rằng ngay cả Shakespeare. Danh sách như thế hoàn toàn không đủ và còn có thể nhân lên gấp mười lần mà vẫn bỏ sót những đóng góp quan trọng.
Và, nếu được phép bao gồm những đóng góp của những Kitô hữu không Công giáo như C. S. Lewis, William Wilberforce, Elizabeth Fry, Fyodor Dostoyevsky, Harriet Tubman, Desmond Tutu, Martin Luther King Jr., Corrie ten Boom, hay Johann Sebastian Bach – những người được Tin mừng tác động sâu sắc – thì danh sách thậm chí còn ấn tượng hơn. Ngay cả những người không phải Kitô hữu như Gandhi cũng đã được Tin mừng ảnh hường sâu sắc đến nỗi ông đã làm thay đổi thế giới theo đúng nghĩa đen.
Nếu một sinh viên tốt nghiệp một trường trung học Công giáo mà không hiểu được tầm ảnh hưởng rộng lớn của đạo Công giáo đối với thế giới thì thật đáng xấu hổ. Những tên tuổi ở trên, và hàng tá cái tên khác nữa, cần phải được đề cập trong chương trình giảng dạy và giáo án, trên các áp phích treo tường và trên môi miệng chúng ta. Cho dù một danh sách ấn tượng như thế tự thân không phải là bằng chứng xác định cho chân lý Tin mừng thì ít nhất nó cũng là lý do thuyết phục để xem xét nghiêm túc những khẳng định của đạo Công giáo trong một thế giới mà sinh viên thường nghe nói tôn giáo của họ là huyền thoại cũ kĩ từ thời đồ đồng hơn là di sản có một không hai trước mắt họ.
Thật quan trọng khi được nói cho biết về di sản phong phú về xã hội, tri thức và nghệ thuật của đạo Công giáo. Nhưng cũng quan trọng không kém là ngay từ đầu hỏi xem đạo Công giáo là gì để tạo ra một di sản như vậy. Nếu muốn truyền đạt một thế giới quan Công giáo đích thực trong việc giảng dạy, chúng ta cần nhìn sâu hơn chứ không chỉ là một danh sách những thành tựu cũng như xét đến bối cảnh đã vun trồng danh sách những tên tuổi đó. Như thấy trong dòng chảy đều đặn của những người trí thức và nghệ sĩ trở về với Giáo hội qua các thời đại, đạo Công giáo mang đến một cái nhìn nhất quán và tuyệt đẹp về thực tại. Đó là một cái nhìn, được hiểu một cách sâu sắc nhất, làm thỏa mãn con người – thể xác, tâm trí và tinh thần.
Và vì vậy, chúng ta nên quan tâm không chỉ việc liệt kê và mô tả những thành tựu Công giáo, nhưng còn phải khám phá một tầm nhìn Công giáo về thế giới khi áp dụng cho từng bộ môn. Chúng ta cần hiểu lý do đạo Công giáo làm cho mọi thứ trở nên thú vị.
Chán nản
Không có chuyện kể, cuộc sống không có ý nghĩa. Không có ý nghĩa, việc học không có mục đích. Không có mục đích, trường học không có sự tập trung mà chỉ là nơi giam giữ. —Neil Postman
Một trong những thách thức lớn của giáo dục ngày nay là phải trả lời cho sự vô nghĩa và không có mục đích. Đặc biệt, giáo dục công đang nỗ lực để biện minh cho chính mình – ít nhất là đối với học sinh – bởi vì ngoài mục tiêu kinh tế và xã hội, nó không thể đưa ra mục tiêu rõ ràng nào khác. Những mục tiêu thực dụng như vậy không đủ để thu hút trí tưởng tượng của người trẻ. Các em có thể cảm nhận nhiều áp lực để học hành tốt ở trường vì những hậu quả có thực hay tưởng tượng về kinh tế và xã hội. Nhưng các em dường như không hứng thú với việc học bởi vì nhận thấy chính vật chất mới là thứ hấp dẫn. Thật vậy, giáo viên có thể cảm nhận được cảm giác vô nghĩa tràn ngập phần lớn nền văn hóa đương đại, bao gồm giáo dục, qua sự chán nản và mất tập trung trên gương mặt học sinh. Giáo viên thường báo cáo rằng học sinh ngày nay ngày càng chán nản.
Giáo viên thấm nhuần thế giới quan Công giáo hoàn toàn không ngạc nhiên về điều này. Việc giản lược mọi ý nghĩa vào những mối quan tâm vị lợi và sở thích cá nhân chắc chắn gây chán nản. Người ta thường hỏi: “Chung quy, nó có nghĩa là gì?” Được trả lời hay ngụ ý là nó vô nghĩa nên bạn cũng có thể làm bất cứ điều gì có thể để tiến lên, điều này thật sự không làm hài lòng.
Điều tệ hơn là khi người ta bảo mỗi chúng ta phải tạo nên ý nghĩa riêng cho mình. Một chiến dịch quảng cáo mỹ phẩm gần đây có khẩu hiệu: “Bạn chính là những gì bạn trang điểm!” Đối mặt với sự vô nghĩa, chúng ta phải tạo ra ý nghĩa riêng từ hư vô – ex nihilo, như Thiên Chúa. Trong khi điều này được trình bày như một hành động cực đoan của tự do, kinh nghiệm cho thấy nó không thực sự tạo ra ý nghĩa, nhưng là phá hủy chính khả thể của ý nghĩa. Nếu tôi chỉ bịa ra điều gì đó thì trong thâm tâm, tôi biết nó không thật. Tôi có thể thay đổi nó vào ngày mai và tiếp tục thay đổi vào ngày hôm sau. Bất cứ điều gì tùy tiện đều không thể thỏa mãn chúng ta.
Quả thật, không chỉ không làm hài lòng; nó còn gây ra nhiều lo lắng, bất kỳ giáo viên nào ngày nay cũng rõ điều này. Khi bảo những người trẻ tạo ra ý nghĩa, mục đích và căn tính, chúng ta đưa cho chúng một nhiệm vụ bất khả thi. Bởi vì bất kỳ điều gì chúng quyết định, thì cũng có thể sẽ đổi; tức là quyết định có thể sai. Nhưng khi chính bạn được cho là thước đo của vạn vật, thì không có cách nào để biết [đúng hay sai]. Tôi muốn nói về việc chất những gánh thật nặng lên người khác mà sau đó không buồn động một ngón tay vào giúp (x. Mt 23,4)!
Được dựng nên cho sự thật
Thật vui mừng khi nhận ra, trong thời đại chúng ta, khi được trình bày cách sâu rộng và toàn vẹn, tầm nhìn Kitô giáo chứng tỏ có sức hấp dẫn vô cùng đối với trí tưởng tượng, chủ nghĩa lý tưởng và những khát vọng của người trẻ. Họ có quyền gặp gỡ đức tin với toàn bộ vẻ đẹp, sự phong phú trí thức và những đòi hỏi triệt để của nó. –Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI
Con người cần những điểm tham chiếu bên ngoài bản thân nếu cuộc sống có ý nghĩa gì đó. Hay nói cách khác, con người được dựng nên hướng về sự thật. Chúng ta muốn biết chân tướng sự việc chứ không phải những gì người khác tạo ra. Phần lớn chúng ta, hầu hết mọi thời, muốn biết một sự thật khó nghe hơn là tin vào một lời nói dối dễ chịu. Và chúng ta tự động nhận ra bi kịch của việc ưa thích sự giả dối. Điểm hay của bài hát nổi tiếng “Lovefool” của nhóm nhạc The Cardigans là nó cho thấy một người thích giả dối hơn sự thật thực sự buồn bã và tuyệt vọng như thế nào. Không ai trong chúng ta muốn rơi vào hoàn cảnh của người ca sĩ cầu xin được dối lừa – “được khờ dại”– về cảm xúc thực sự của người yêu.
Thậm chí có những người thuộc trường phái ngụy biện nói với chúng ta những điều như “mọi chân lý đều tương đối”, hay “sự thật có thể tồn tại, nhưng chúng ta không thể đạt được”, hay “mọi tuyên bố về sự thật chỉ đơn giản là những tuyến bố trá hình về quyền lực”, tin là thật rằng mọi sự thật đều tương đối, rằng thật sự chúng ta không nắm được chân lý, rằng thật sự mọi tuyên bố về sự thật đều là tuyên bố về quyền lực. Chúng ta vô phương cứu chữa. Chúng ta tìm kiếm sự thật ngay cả khi phủ nhận sự thật. Chúng ta không thể giúp chính mình. Chúng ta được tạo dựng cho sự thật.
Xác tín sâu sắc rằng con người được dựng nên cho và lớn lên trên sự thật là một trong những nền tảng quan trọng của tầm nhìn Công giáo về thế giới và như thế về giáo dục Công giáo. Giáo dục là theo đuổi sự thật bởi vì biết chúng ta là ai, Thiên Chúa là ai, và thế giới mà Ngài tạo nên ra sao là những điều cần có trước hết để con người phát triển, hôm nay và mai sau. Và, một khi ý niệm về sự thật trở thành vấn đề đối với học sinh, giáo dục bị giản lược thành việc giải gỡ những cấu trúc chuyện kể vốn đã từng nắm giữ ý nghĩa hay là thành việc chỉ học đủ những kỹ năng để kiếm một công việc tương đối. Những câu hỏi thật sự khiến cuộc sống con người thú vị và hào hứng đã bị bỏ qua. Và sự chán nản và hoài nghi lên ngôi.
Cùng một cam kết với sự thật vốn là nền tảng của giáo dục Công giáo và là nền móng của di sản tri thức Công giáo mà chúng ta đã nêu bật ở trên. Đạo Công giáo khiến mọi thứ thú vị bởi vì, trước hết, nó nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thật. Chỉ trong một thế giới quan tin rằng sự thật nằm ngoài bản thân tôi và tôi có trách nhiệm với nó thì sự vượt trội về tri thức mới xuất hiện. Và, ngoài việc khẳng định rằng sự thật tồn tại và chúng ta thực sự có thể nhận biết nó, còn có những tuyên bố riêng về sự thật của đạo Công giáo khiến cho nghệ thuật, toán học và y tế thú vị.
Thế giới quan Kitô giáo
Chúng ta khó có thể tưởng tượng rằng những bộ môn như khoa học hay lịch sử mà sự tồn tại của chúng đối với chúng ta là đương nhiên thì có lẽ không phải vậy. Tất nhiên, những thứ chúng ta học ở các giờ lớp khoa học (thế giới tự nhiên) và lịch sử (chuỗi các sự kiện theo thời gian) có tồn tại. Nhưng có những thời điểm và địa điểm mà chúng ta gọi là lịch sử và khoa học – tức là những khuôn khổ mà chúng ta sử dụng để hiểu về thế giới tự nhiên và các sự kiện – hoặc là hoàn toàn không tồn tại theo các phạm trù khái niệm hoặc là không giống lắm với những gì chúng ta hiểu bằng những thuật ngữ đó.
Nếu không có thế giới quan Kinh thánh, những khuôn khổ mà chúng ta coi là đương nhiên để tiếp cận kiến thức trong những lãnh vực này đã có thể không nảy sinh. Khoa học không chỉ xuất hiện mọi nơi mà con người liên hệ với thế giới tự nhiên. Nó chỉ xuất hiện chỉ một lần, trong một bối cảnh rất cụ thể. Không phải ngẫu nhiên mà nó xuất hiện ở một châu Âu theo Kitô giáo. Và chính ý nghĩa của từ lịch sử như chúng ta sử dụng ngày nay đều có nguồn gốc sâu xa từ Kinh thánh. Điều gì trong thế giới quan Công giáo dẫn chúng ta đến với suy nghĩ mà chúng ta có ngày nay về khoa học và lịch sử?
Trọng tâm của thế giới quan Kitô giáo là niềm xác tín trong Kinh thánh rằng Thiên Chúa là Thiên Chúa và thụ tạo không phải Thiên Chúa. Điều này có vẻ rõ, nhưng nó thật sự khá cực đoan. Sự siêu việt của Thiên Chúa – chẳng hạn, được thể hiện bằng hình ảnh Cựu ước về bụi gai bốc cháy, nơi thần tính tỏa sáng nhưng không thiêu rụi thụ tạo – đã là điều mà nhân loại khó kiên định chấp nhận. Con người chúng ta thường bị cám dỗ bởi nhiều hình thức phiếm thần đồng nhất Thiên Chúa với thụ tạo. Ý tưởng đúng đắn cho rằng Thiên Chúa cư ngụ nơi vạn vật dễ dàng trở thành ý tưởng sai lầm rằng Thiên Chúa là vạn vật; rằng không có sự phân biệt thực sự giữa Thiên Chúa và vũ trụ hay giữa Thiên Chúa và chúng ta. Điều này đúng với những quan niệm tôn giáo cổ xưa cũng như của nhiều quan niệm hiện đại. Tuy nhiên, Kitô giáo, theo sau Do Thái giáo, triệt để bác bỏ những ý niệm như vậy. Và điều này đưa đến những hệ quả quan trọng cho tư duy về khoa học và lịch sử.
Khoa học
Tại sao sự siêu việt của Thiên Chúa quan trọng? Trước hết, nó giải huyền thoại thế giới vật chất. Bạn có bao giờ để ý xem sách Sáng thế gọi mặt trời và mặt trăng là gì không? Đơn giản là “vầng sáng lớn hơn” và “vầng sáng nhỏ hơn”. Tại sao? Chương đầu sách Sáng thế chống lại thần thoại sáng tạo của Babylon.
Người Do Thái đang sống trong cảnh tù đày ở Babylon khi câu chuyện sáng thế của Israel hoàn thành, và ở Babylon, cũng như trong nhiều nền văn hóa lớn, mặt trời và mặt trăng được người dân tin là thần linh. Người Do Thái cần dạy con cái họ rằng chỉ Thiên Chúa mới là thần linh duy nhất, và vì thế họ thậm chí không gọi tên là mặt trời và mặt trăng.
Rất dễ bị cám dỗ tôn thờ thế giới tự nhiên. Nó đầy bí ẩn và sức mạnh. Đôi khi nó ứng xử như thần linh cần được xoa dịu cơn thịnh nộ. Nhưng một khi thế giới vật chất không được tôn thờ như thần linh, nó có thể được nghiên cứu như một sinh vật. Và rồi càng nhìn vào nó, bạn thấy rằng tự nhiên không thất thường và tùy tiện nhưng có trật tự và có thể hiểu. Sự phân biệt giữa thụ tạo và Tạo Hóa mà mặc khải Do Thái – Kitô giáo nhấn mạnh, chính là nguồn gốc sâu xa của khoa học.
Lịch sử
Kitô giáo không phải là một trong những điều vĩ đại của lịch sử; nhưng chính lịch sử là một trong những điều vĩ đại của Kitô giáo. —Henri de Lubac
Lý do thứ hai mà sự siêu việt của Thiên Chúa quan trọng đối với chúng ta là nó đảm bảo cho tự do của con người. Vấn đề lớn của ý chí tự do – làm sao con người có thể thực sự tự do nếu Thiên Chúa đầy quyền năng? – chỉ có thể giải quyết được nếu cách thức hiện hữu của thụ tạo và của Thiên Chúa khác xa nhau đến nỗi giữa chúng không có cách gì cạnh tranh được. Khi Giáo hội sơ khai cố gắng trình bày kinh nghiệm về Đức Giêsu theo tương quan của Đức Giêsu với Thiên Chúa, thì đã có sẵn một lựa chọn trong thế giới cổ đại.
Thế giới đó biết đến các vị bán thần, những anh hùng như Hercules với cha là thần linh và mẹ là người phàm. Con của một vị thần Hy Lạp và một người phàm chỉ có nửa thần tính. Đó là bởi vì các vị thần Hy Lạp không siêu vượt trên thụ tạo. Họ cũng là một phần của nó như vạn vật khác, mặc dù có quyền năng vô cùng lớn, họ không thể thoát khỏi những quy luật cơ bản của thụ tạo. Một vị thần Hy Lạp ăn nằm với con người cũng gần giống như một con ngựa với con lừa sinh ra con la. Kết quả là một hỗn hợp – có lẽ ngược ngạo nhưng hoàn toàn có thể hiểu được bằng những phạm trù nhân loại.
Giáo hội bác bỏ lựa chọn này và thay vào đó nói một điều chưa từng nghe đến. Đức Giêsu không phải là người 50% và Thiên Chúa 50%. Ngài hoàn toàn là người và hoàn toàn là Thiên Chúa. Nhưng điều này chỉ có thể xảy ra nếu nhân tính và thần tính là những phạm trù khác nhau đến mức chúng không thể cạnh tranh nhau. Sự khác biệt giữa thần tính và nhân tính giống như sự khác biệt giữa màu sắc và hình dạng hơn là sự khác biệt giữa hai loài động vật có thể giao phối nhau. Một quả bóng có thể hoàn toàn đỏ và hoàn toàn tròn, bởi vì màu sắc và hình dạng hoạt động khác nhau đến mức chúng đơn giản là không thể cạnh tranh với nhau.
Bởi vì Thiên Chúa hoàn toàn siêu việt, tự do của Ngài đơn giản là không cạnh tranh với tự do của chúng ta. Thiên Chúa có thể tự do hoạt động ngang qua tự do của con người mà không thống trị nó. Ngài cho chúng ta thấy điều này một cách đầy kinh ngạc trên thập giá. Trên đồi Canvê, con người có cách riêng hành xử với Thiên Chúa. Ngài không chống trả. Ngài nói rõ với Philatô rằng Vương quốc của Ngài – nghĩa là quyền năng, cách Ngài hiện hữu – không thuộc về thế giới này.
Thay vào đó, Đức Giêsu hoạt động ở một cấp độ có thể hấp thụ và biến đổi hành động của con người. Ngài không cần thống trị chúng ta. Và như thế, Thiên Chúa cứu độ chúng ta ngang qua tự do bị đỗ vỡ của chúng ta, mà không tước đoạt hoặc đánh bại tự do, nhưng vượt trên nó, điều mà Thiên Chúa có thể làm chỉ vì Ngài thậm chí còn tự do hơn chúng ta.
Cha mẹ và giáo viên giỏi có thể hình dung điều này vào những khoảnh khắc mà họ để trẻ em tự do chọn lựa điều tốt. Hãy nghĩ đến lần gần nhất bạn có thể điều hướng đứa trẻ đang thất vọng thay vì làm chúng bế tắc trong cuộc đấu tranh ý muốn. Lưu ý, chúng ta chỉ có thể làm điều này khi chúng ta tự do hơn bọn trẻ. Nếu chúng ta không có tự do, chúng ta không thể.
Bởi vì sự siêu việt của Thiên Chúa cho phép thụ tạo là thụ tạo, từ đó có khoa học. Bởi vì sự siêu việt của Thiên Chúa cho phép con người thực sự tự do, từ đó có lịch sử. Nếu chúng ta không tin vào tự do của con người, chúng ta sẽ không tin lịch sử, ít nhất không như cách chúng ta sử dụng từ này. Tất nhiên, chúng ta có thể vẫn tin rằng các sự kiện xảy ra và chúng ta có thể viết chúng xuống và ghi nhớ.
Nhưng “lịch sử” mà chúng ta biết có nghĩa là khả năng xảy ra điều gì mới mẻ, rằng tự do – của con người và Thiên Chúa – có thể tạo ra sự khác biệt thực sự. Lịch sử có kết thúc mở và mang tính đáp ứng. Nó là thứ có thể được hình thành chứ không chỉ được lưu lại. Lịch sử như chúng ta hiểu không chỉ đơn giản là chuỗi các sự kiện theo thời gian; trên thực tế nó hoàn toàn trái ngược với định mệnh.
Mọi bộ môn
Còn những thứ như tiểu thuyết và tự truyện thì sao? Chúng ta có bao giờ tự hỏi chúng đến từ đâu? Hay chúng ta cho rằng chúng cũng chỉ vậy? Các loại hình nghệ thuật cũng xuất hiện trong những mạng lưới văn hóa cụ thể. Tiểu thuyết như chúng ta biết có nguồn gốc tương tự như lịch sử. Chúng có thể là một loại hình văn hóa bởi vì niềm tin từ Kinh thánh rằng con người tự do và tự do của họ không tùy tiện nhưng hướng đến mục tiêu thực sự nào đó. Và tự truyện – Tự thuật của thánh Augustinô thường được xem là cuốn tự truyện đích thực đầu tiên – chỉ tồn tại trong một nền văn hóa tin vào giá trị không thể thay thế của mỗi một con người.
Mọi người đều tin một câu chuyện nào đó về thế giới. Không thể không tin. Và câu chuyện đó định hình cách họ nhìn nhận mọi thứ khác. Hơn nữa, mỗi câu chuyện như thế sẽ liên quan đến sự tác động qua lại giữa đức tin và lý trí. Điều này không có nghĩa là mỗi câu chuyện đều đúng như nhau. Con người mắc hoài những sai lầm về niềm tin và lý trí. Nó cũng không có nghĩa là chúng đều sai. Một cách để nhận ra sự thật của câu chuyện là xem chúng liên kết với nhau thế nào. Thế giới quan nào sẽ theo sau nếu nó đúng? Nếu tôi tin vào nó, sẽ có những hệ luận gì cho mọi thứ khác?
Một nền giáo dục Công giáo cần trả lời cho câu hỏi này. Nếu đạo Công giáo là đúng, thì điều gì sẽ theo sau? Nó không thể tách rời khỏi phần còn lại của cuộc sống và việc học. Nó sẽ tác động lên cách chúng ta hiểu về khoa học, lịch sử, toán học, nghệ thực, y tế, kinh doanh, thể thao, đạo đức và mọi thứ.
Gioan Quốc Trầm chuyển ngữ
[1] Catholicism Makes Everything Interesting | Church Life Journal | University of Notre Dame (nd.edu)